Lâu lắm rồi, có một lần trong đời tôi tìm lại được những cánh phượng khô ép giữa những bài thơ, trong tập thơ có những trang giấy “pelure” màu hồng, màu xanh dễ thương như cái tuổi học trò thơ mộng. Những kỷ niệm thời học trò bị bỏ quên nằm lẫn lộn với những cuốn sách cũ trên kệ sách, hình như không ai đụng đến. Rất, rất lâu tôi cũng không đụng đến, cho đến một buổi chiều mưa tự nhiên tôi lại nhớ, những cánh hoa khô bất ngờ rơi xuống lả tả đã trở màu nâu sậm là lúc ấy trong trí tôi, cũng rưng rưng những cánh phượng màu đỏ thắm rơi trên mặt cỏ …
Cảm
giác mênh mang buồn khi tìm gặp lại những cánh phượng khô ép trong
trang vở, khiến tôi nhớ đến anh, người “bạn” duy nhất trong đời học
sinh, đã nhặt những cánh phượng rơi trên thảm cỏ gần mé sông,
ép vào trang vở bọc trong giấy kính mờ rồi làm quà cho cô bạn nhỏ. Nét
chữ bay bướm của anh nghiêng nghiêng trên những tờ thư mỏng, anh vẫn
thường nhận phần trang trí hay chép hộ tôi những bài thơ hay. Chỉ vậy
thôi, ngày nào trên đường đi học về tôi cũng đã
phải ghé vào nhặt vài bông hoa cầm trên tay để làm duyên với anh bạn
chung đường, hình như từ đó cũng nảy nở một mối tình học trò, be bé xinh
xinh như những cánh phượng đầu mùa ép khô đã đổi màu với thời gian.
Mối
tình ấy bao lâu tôi không nhớ, nó bắt đầu khi nào và kết thúc làm sao
vẫn chỉ để lại một nỗi buồn hờn giận nhẹ nhàng mà lại khó nguôi trong
trái tim nhỏ bé của tôi. Hai năm dài đi chung một con
đường đến trường, bỡ ngỡ xa lạ lúc ban đầu, êm đềm đằm thắm lúc về sau,
để rồi sau một mùa hè “người ấy” biến mất, như những cơn mưa mùa hè đã
cuốn theo những cánh hoa phượng rã rời trôi theo dòng sông biền biệt.
Tôi
chỉ biết anh ở trọ nhà bà con trong suốt thời gian đi học, bà mẹ quê
phải vất vả tằn tiện từng đồng nuôi con đi học xa. Quê anh tít trong
vùng sâu ở bên kia sông, thời chiến tranh nằm giữa hai lằn
đạn. Bà mẹ chịu ở lại với mảnh vườn và ruộng lúa để nuôi các con ăn
học, tình hình chiến sự nhiều khi trở nên rất sôi động đến nỗi con cũng
không dám về nhà thăm mẹ cho nguôi lòng thương nhớ, mẹ cũng phải khó
khăn mới chèo chống được với sóng gió, bằng chiếc
ghe nhỏ chở khẳm gạo và thức ăn bơi qua sông lớn để nuôi con ăn học.
Chính vì vậy mà tâm tư anh khắc khoải một nỗi buồn, nhất là những đêm
tiếng đại bác vọng về thành phố, ánh hoả châu soi sáng vùng trời xa bên
kia sông, tương lai tuổi trẻ ngày ấy mịt mờ nặng
trĩu những âu lo khiến anh nghĩ tới bà mẹ quê tội tình mà không an tâm
trong việc học. Năm đó anh thi rớt, một là học lại một năm nữa để thi
nốt mảnh bằng tú tài 2, sau đó lên Đại Học, nhưng đúng lúc đó chiến trận
leo thang, anh cũng đang độ tuổi tòng quân
nhập ngũ.
Anh
biến mất trong tôi kể từ mùa hè năm ấy không một lời từ giã. Có lúc tôi
nghĩ chắc anh đã nghỉ học về quê ở nhà với mẹ để trốn lính, hay có khi
lại chạy theo bên kia vì nhà anh thuộc vùng xôi đậu.
Thôi thế là hết, tình học trò còn non nớt như những bông hoa phượng đỏ,
lắm nhớ nhung để rồi tự nhiên bị đứt như dây tơ chùng xuống nốt nhạc
buồn. Trong tâm hồn người con gái tuổi mộng mơ mới biết yêu vẫn thổn
thức khi niên học mới một mình đến trường không
còn ai đưa đón. Lật tập thơ tôi thấy còn nhiều cánh hoa phượng khô của
anh tặng năm xưa nằm xen trong những trang giấy mỏng, lúc ấy tôi đã làm
bài thơ “Ngày Tựu Trường”, ép vào đó một cánh phượng khô với nỗi buồn
của tôi, nỗi hờn giận đã làm tan nát trái tim
non nớt tuổi học trò.
Ngày Tựu Trường
Ngày tựu trường lòng tôi sao trống vắng
Đếm trên đường từng bước với cô đơn
Người ta vui sao chỉ có tôi buồn
Tình êm đẹp bây giờ không còn nữa
Lá phượng xanh , màu xanh nay đã úa
Ngày tựu trường trời sao vẫn nhiều mưa
Đường đi, về tôi cảm thấy bơ vơ
Nên cúi mặt tìm màu hoa đỏ thắm
Một người ra đi nơi nào xa lắm
Cánh phượng hồng khô héo đã từ lâu
Những bông hoa kỷ niệm buổi ban đầu
Vẫn còn đó không một lời hẹn ước
Ngày tựu trường có một mình tôi khóc
Đâu còn anh ai chép hộ bài thơ
Đâu còn anh mình tôi bước thẫn thờ
Trong buổi sáng đầu năm vào lớp học.
Bài
thơ dễ thương ấy là một trong những bài thơ tuổi học trò, với những
cánh hoa ngả màu nâu buồn nằm thầm lặng trong góc tủ sách , hay suốt đời
nằm thầm lặng trong đáy hồn tôi.
Khi
tôi nghĩ sẽ không bao giờ còn gặp lại “người ấy”, dù chia tay chỉ vì
hoàn cảnh nhưng đã vô tình làm tổn thương trái tim non nớt của tôi. Vậy
mà vài năm sau khi lập gia đình, tôi bồng đứa con gái
nhỏ ghé vào tiệm bách hoá mua đồ chơi cho con thì gặp anh. Trong bộ
chinh y còn nhàu bụi đường xa, hình như anh mới từ đơn vị về nên nét mặt
còn hằn dấu phong sương.
Ngỡ
ngàng, bối rối, bồi hồi, ba cảm giác ấy trộn lẫn vào nhau khiến tôi
lúng túng thốt ra toàn những câu thật ngớ ngẩn khi hai bên chạm mặt
nhau. Má tôi nóng bừng lên lẫn lộn cảm xúc bất ngờ xung đột
trong lòng, khi nhớ đến chuyện ngày xưa, lại nửa như muốn cho anh nhìn
thấy cái hạnh phúc mà tôi đang có. Vẫn không bỏ được tính trẻ con, bất
đắc dĩ tôi phải hỏi, vẫn trống không như ngày xưa mỗi lần hờn giận:
“Mới về hả?”
Anh cũng mỉm cười gật đầu, ánh mắt nửa thương mến nửa giễu cợt khi nhớ lại cái tính hay hờn của tôi:
“Ừ, mới về!”
Rồi
lặng thinh nhìn tôi rất lâu. Đôi mắt ấy chừng như đâu đó đọng lại một
niềm vui dịu dàng khi biết tôi đã có một đời hạnh phúc, xen lẫn chút ân
hận khi nghĩ đến chuyện cũ. Thời gian qua lâu rồi, những
cánh hoa phượng đã uá rồi vẫn nằm trong tập thơ tôi nhét kín trong kẹt
tủ sách. Trong bấy nhiêu năm trời tôi đâu biết anh đi đâu về đâu, bây
giờ nhìn anh trong màu áo trận, tôi ân hận là đã có lúc nghĩ sai về anh,
vì tưởng anh sợ đời lính nên trốn về quê núp
bóng mẹ. Anh nựng đứa bé trên tay tôi rồi hỏi:
“Cháu xinh và giống mẹ ghê, được mấy tuổi rồi?”
Tôi
lí nhí trả lời nhưng tự nhiên một nỗi hờn giận dâng lên trong ánh mắt,
tôi có làm gì nên tội để ngày ấy anh bỏ đi không một lời từ giã. Theo
thời gian tình yêu ấy giờ đây đã khâm liệm rồi, nhưng
niềm đau thì hình như vẫn còn đó khi nhớ lại. Nỗi đau tuổi đầu đời, in
một dấu hằn trong trái tim nhỏ bé, chưa kể những giọt nước mắt tủi hờn
mỗi lúc lẻ loi trên đường đi học, tôi vẫn phải đi ngang nhịp cầu và mé
sông rưng rưng tàn hoa phượng đỏ mỗi lúc sang
hè.
Tự nhiên tôi bật hỏi:
“Hồi đó anh đi đâu?
Anh buồn buồn:
“Anh
nhập ngũ, mẹ anh đâu còn bao nhiêu sức lực để nuôi anh học lại một năm
nữa, anh cũng không thể về cày cuốc nơi mảnh đất quê nhà. Đành là ra đi
mà không dám nói lời từ biệt, anh xin lỗi…”
Chúng
tôi còn nói thêm vài câu chuyện nữa, đã hết giận anh rồi, chuyện cũ đã
được giải thích, dù sao hiện tại tôi đã ấm êm với một gia đình hạnh
phúc, riêng anh đời lính đẩy đưa qua những miền đất lạ,
chỗ nào cũng chỉ có đạn bom. Anh chưa lập gia đình dù mẹ anh mong mỏi,
nhưng đời lính luôn đối diện với sống chết lại ám ảnh chuyện “những Kinh kha một sớm chẳng quay về” nên anh ngại ngùng chưa nghĩ đến hôn nhân.
Tôi
bế con ra khỏi tiệm bách hoá, trên tay con bé giữ chặt món quà của
người lính mua tặng, nó toét miệng cười khi anh đặt nụ hôn dịu dàng lên
vầng trán ngây thơ cuả đứa bé trước khi từ giã. Chuyện
năm nao đã lắng xuống rồi, ít ra cũng có một câu trả lời để “cô bé học
trò” ngày ấy khỏi tấm tức vì nghĩ mình bị bỏ rơi. Nụ hôn dịu dàng anh
gửi lại trên vầng trán đứa bé, khiến tôi chạnh nhớ đến lần cuối cùng,
anh cũng giấu kín lời từ biệt với nụ hôn nhẹ
nhàng trên trán tôi rồi ra đi mà không nói một lời. Món đồ chơi trẻ con
đưá bé giữ chặt trong tay, khiến tôi bật cười mà lại cảm động khi nghĩ
tới những bông hoa phượng màu nâu khô ép trong tập thơ nhét trong kẹt
tủ, ngày xưa tôi cũng giơ tay nhận món quà
trời cho ấy mỗi độ sang hè, nhớ đôi mắt nồng ấm của anh nhìn tôi với nụ
cười xinh dấu trong vành nón lá.
Kể
từ lần gặp ấy tôi không hề gặp lại anh nữa, cuộc đời cứ thế trôi đi
theo cái tan nát của nước non. Tôi may mắn cùng chồng rời khỏi quê nhà
trong những giờ thứ 25 của cuộc chiến, chẳng mang theo được
gì, huống chi là tập thơ tuổi học trò dấu trong kẹt tủ sách có những
cánh hoa khô ép trong cuốn vở.
30
năm sống ở quê người, lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai nỗi nhớ quê và mong
ước một lần trở về. Trở về để làm một người khách lạ trên chính quê
hương của mình, những gì trong quá khứ đã không còn, tôi
chẳng tìm đâu ra hai cây phượng nơi mé sông, tôi cũng không nhìn ra
ngôi trường mình đã học ngày xưa vì nó thay đổi hết rồi. Chị bạn đồng
hành mời tôi về thăm sông nước miền Tây cho biết đời sống và vẻ đẹp của
những thôn làng nằm ven bờ sông Hậu, tôi nhận
lời ngay vì chợt nghĩ đến ngày xưa, có lần tôi đã ao ước được theo anh
về thăm nhà, nhưng anh nói:
“Em không biết chèo xuồng, không biết bơi làm sao dám về vùng sông nước.”
Anh
nói vậy nhưng tôi hiểu cái mặc cảm trong lòng anh, một cô gái thị thành
“ăn trắng mặc trơn”, sao phù hợp được với cảnh đời của một thanh niên
cảnh nhà thanh bạch nơi quê mùa đầy những bất trắc của
chiến tranh. Lần trở về này tôi theo người bạn về thăm quê chị, nơi mà
có lần mấy chục năm về trước, tôi đã nhìn thấy nỗi bồn chồn cuả người
yêu cũ khi nhìn ánh hoả châu phía chân trời bên kia sông, mà nghĩ đến bà
mẹ quê nghèo đang lao đao giữa hai lằn đạn.
Đã
bao nhiêu khuôn mặt thân hay sơ đi qua đời mình,bạn bè chung trường
chung lớp ngày xưa bây giờ mỗi người có một số phận khác nhau và đời
sống khác nhau. Tôi gặp một vài người bạn cũ còn sống ở quê
nhà, có người thành công có người lận đận an phận sống cho hết kiếp
người. Tôi thoáng nhớ đến anh người bạn thuở học trò, không biết bây giờ
anh ra sao, chỉ mong sao anh cũng thoát được nỗi vất vả cuộc đời mà qua
hai giai đoạn tôi biết, đời học sinh và đời
lính tuổi nào anh cũng ắp đầy nỗi khổ.
Chuyến
đò xình xịch nổ máy rồi rời bến chở khách về thăm lại làng quê miền
đồng bằng sông Cửu Long, bây giờ cũng có một con đường nhỏ chạy song
song với dòng sông. Đa số người miền quê vẫn thích đi
bằng đò vì mát mẻ và vận chuyển được nhiều hành lý, còn người đi xa trở
về lại muốn hưởng cảm giác thanh bình cuả những làng mạc nằm dọc theo
dòng sông. Lòng tôi êm dịu quá, những đợt sóng nhỏ vỗ vào mạn đò êm như
nhịp võng và tiếng ầu ơ cuả những trưa hè
trong một xóm nhỏ của miền Nam ngày xưa, tôi để lòng trôi nổi theo
những kỷ niệm một thời đã lắng xuống sau 30 năm tôi sống ở quê người.
Chập
chờn theo tiếng sóng vỗ vào con đò chòng chành trên dòng sông, gió mát
miền quê ru tôi vào giấc ngủ, lúc ấy đò vừa cập bến nên mọi người lao
nhao đứng dậy để lên bờ, tôi mới ngây ngất nhìn thấy
hai cây phượng thắm bên dẻo sông này đang mùa hoa tưng bừng nở rộ. Hoa
đỏ chi chít chen lẫn trong những cành lá xanh ly ty xanh biếc, lòng lại
bồi hồi xúc cảm vì bất chợt tìm lại những gì mất đã lâu nay bỗng dưng
hiện ra trước mắt. Ôi chao! Cũng những cánh
hoa tả tơi rơi trên mặt đất, cũng cây phượng hồng bên mé sông, chỉ khác
là hôm nay tôi không còn là cô nữ sinh tuổi mười bảy của những năm
tháng trước. Hai cây phượng hồng che bóng mát cho một cái quán nghèo nhà
quê, bán trái cây và những thứ kẹo bánh, đồ
chơi cho trẻ con, người làng xã mỗi lần ra bến chờ chuyến đò ra tỉnh.
>
Mỏi chân nên tôi ngồi nghỉ nơi cái bàn của quán nước ở ngoài hiên, chờ
chị bạn lấy hành lý về thăm nhà bà con, bảo người phụ nữ chủ quán có nét
mặt hiền hoà đôn hậu chặt cho tôi một trái dừa xiêm nhỏ.
Biết tôi khách phương xa, chị quày quả gọi vào bên trong lấy cho tôi
một trái dừa tươi nhất từ trên cây phía sau nhà. Khi người đàn ông chống
đôi nạng gỗ khập khễnh bước ra đem trái dừa cho vợ, mắt tôi loà nhoà
một hình ảnh rất thân quen, mặc dù thời gian
và tuổi tác đã cày sâu trên khuôn mặt, nhưng chắc chắn là tôi không
lầm. Trời ơi! Anh đấy ư? Có thể nào như thế nếu như trời vẫn còn bắt tôi
gặp lại người xưa trong cảnh huống này, con người quả có số phận, nhưng
nỡ nào chiến tranh lại lấy đi của anh nhiều
như vậy? Một cái chân bỏ lại chiến trường, cộng thêm một con mắt khiến
anh khó lòng nhận ra tôi lúc ấy, chính tôi cũng thay đổi nhiều rồi,
nhưng so sánh giữa hai cảnh đời thì anh đã gánh chịu quá nhiều bất hạnh.
Không
nén được cảm xúc, tôi uống một ngụm nước dừa nhưng lại không cảm được
cái ngọt lừ của nước mắt quê hương. Thấy anh đi vào, tôi bật đứng dậy
chạy gọi với theo khiến người vợ cũng ngạc nhiên:
“Anh …anh gì ơi, cho tôi hỏi thăm”
Anh
ngạc nhiên đứng lại, cây nạng gỗ dựa bên khiến dáng anh khập khiễng làm
lòng tôi càng thương cảm. Rồi nhìn tôi chăm chú bằng con mắt còn lại,
linh tính đã nhận ra tôi là người quen năm cũ, anh bình
tĩnh mỉm cười, nụ cười ấy tôi nhận ra ngay như ngày nào gặp lại nhau
trong tiệm bách hóa. Anh hỏi:
“Mới về hả?”
Tôi nhìn anh lòng rộn lên niềm vui, lí nhí nói:
“Ừ, mới về!”
Trong bao nhiêu năm cứ như thời gian không ảnh hưởng gì đến cái tình năm xưa trong quá khứ, anh nói tiếp:
“Không ngờ quả đất tròn thiệt, tôi không ngờ mình còn sống để có ngày gặp lại”.
Chúng tôi trở lại bàn dành cho khách uống nước, chờ chị bạn để về nhà.Vợ anh lăng xăng mừng rỡ:
“Cô đây quen với mình hả?”
Anh gật đầu vui vẻ:
“Quen,
hồi anh còn đi học nhưng lâu rồi không gặp, cũng mấy chục năm rồi mà
còn nhận ra nhau. Bữa nay em chuẩn bị làm cơm mình đãi khách quý, hình
như cũng là bạn cuả cô Út cháu bà Hai trong xóm mới
từ nước ngoài về?”
Tôi
gật đầu, chị bạn tôi cũng vừa đến, nhất định tôi phải thuyết phục chị
buổi chiều đến nhà anh ăn bữa cơm hạnh ngộ. Thấy anh lom khom với cây
nạng, tôi dò hỏi:
“Sao anh không dùng xe lăn cho khoẻ?”
Anh mỉm cười nhẫn nhục:
“Ở
nhà quê đường xá gập ghềnh, chống nạng tiện hơn, cái chân này cũng vững
vì nó biết phải bảo vệ cái chân kia cho mình khỏi té.”
Trời
ơi, bao nhiêu năm vốn văn chương vẫn còn nguyên trong trí nhớ của người
học trò, vẫn khí phách của người lính dám đứng thẳng đối phó với hoàn
cảnh. Chắc anh khổ nhiều mà không nói ra, nhưng tâm
tôi đã quyết phải làm một cái gì cho anh. Trả ơn những bài thơ chép
trong cuốn vở, trả ơn những cánh hoa khô ép trong thơ đã cho tôi những
tháng ngày mộng mơ tuổi học trò, trả ơn người lính đã đánh mất phần thân
thể cho tôi được bình yên trong thời chinh chiến.
Hai
ngày theo chị bạn về quê, nơi này làng xóm thân cận nên ai cũng biết
nhau, cũng không ai biết gì về sợi dây thân tình của anh thương phế binh
với người phụ nữ trung niên từ xa mới về. Mẹ anh chết
lâu rồi, anh trở về sống trong căn nhà hương hỏa của gia đình, an phận
với nếp sống đạm bạc rau trái trong vườn, mãi mới chịu lấy vợ để tuổi
già đỡ hiu quạnh. Hai đứa con anh lớn lên được cho ra tỉnh trọ học y như
cha chúng nó ngày xưa, nhưng khá hơn vì đã
hết chiến tranh, ngày nghỉ vẫn theo đò về quê thăm cha mẹ. Anh đối đãi
tôi bằng mối thâm tình cuả người anh với cô em gái, sau bữa cơm khá
thịnh soạn có món gỏi gà trộn rau răm bắp chuối, chị lưỡng lự chưa dám
cầm món quà của tôi nhét vào túi áo chị dù biết
rằng nó sẽ giúp anh chị thực hiện những ước mơ, như làm lại cái quán
nhỏ để mưu sinh qua ngày, bán thêm vài thứ đồ chơi rẻ tiền cho trẻ con
trong xóm.
Anh
thở dài rồi cũng phải nhận món quà của người em gái một thời còn nợ anh
những bông hoa phượng ép trong cuốn vở, nhưng vẫn nói:
“Cảm
ơn cô đã nghĩ đến anh, sau chiến tranh anh được về với mảnh đất quê nhà
là may mắn rồi, còn biết bao đồng đội của anh què chân cụt tay lê la
ngoài đầu đường xó chợ không có ai giúp đỡ. Nếu có lòng,
em cố giúp những người ấy, phần anh như vậy đã quá đủ, còn có hai cây
phượng bên bờ sông nở hoa mỗi độ hè về, đâu ao ước gì hơn nữa.”
Xế
trưa hôm sau nữa tôi và chị bạn trở ra tỉnh để lên Sàigòn chuẩn bị
chuyến bay. Lúc vợ anh bận bịu bán hàng cho khách trong quán, chị bạn
tôi cũng lăng xăng từ biệt gia đình người bà con, mắt ai cũng
rươm rướm hẹn lần tái ngộ. Lúc ấy tôi có dịp đứng một mình với anh dưới
tàng cây phượng vĩ, rực rỡ những bông hoa đỏ lung linh in bóng xuống
dòng sông. Vướng một chút hắt hiu khi nắng chiều rọi vào khuôn mặt đã
hằn dấu vết thời gian, anh nói nhỏ:
“Em
vẫn còn giữ được nụ cười năm xưa. Bây giờ có hiểu tại sao anh lại trồng
hoa phượng, cũng chỉ bởi muốn giữ trong lòng những kỷ niệm thời đi
học.”
Tôi
gật đầu không nói, nhưng mắt lại rưng rưng khi hiểu rằng trong trái tim
anh thấp thoáng vẫn còn hình ảnh cô bạn nhỏ thời đi học. Chắc khó gặp
lại nhau lần nữa, khi con đò tròng trành rời bến ra
giữa sông, bóng anh nhỏ dần nhưng mắt tôi vẫn ngoái trông những bông
hoa phượng rưng rưng nơi bờ sông lộng gió …
Nguyên Nhung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét