Hình [2]: Đại biểu cho thuyết duy lý – René Descartes (1596-1650),
Baruch de Spinoza (1632-1677), Gottfried W. Leibniz (1646-1716)
Thuyết duy lý
Nói về thuyết duy lý, trước hết phải đề cập đến René Descartes. Ông
là người đầu tiên làm một cuộc thử nghiệm táo bạo, muốn đạt đến nhận
thức chỉ bằng phương tiện duy nhất là tư duy. Điều này dù mới được
Descartes bắt đầu trong những thập niên đầu của thế kỷ 17, nhưng nó đã
dẫn đến tình trạng “đột phá của sự trưởng thành[13]”
vào cuối thế kỷ đó và đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực trong đời sống văn
hóa, chứ không riêng gì trong phạm vi triết học. Cũng nhờ Descartes mà
toàn bộ nhận thức của con người từ đây bắt đầu dựa vào một nền tảng mới,
đó là lý tính. Trong bối cảnh lịch sử ấy, ông xứng đáng được xem là vị tổ phụ của thuyết duy lý.
Sau Descartes, bóng tối dần dần bị đẩy lùi. Bóng tối đó chính là sự
thống trị tinh thần một cách phi lý của giáo hội, là chủ nghĩa giáo điều
và sự mù quáng trong trong hệ thống giáo dục, là sự mù quáng tin vào
những ý tưởng vô căn cứ cũng như định kiến trong triết học, là sự thống
trị bất công về mặt chính trị của hệ thống quân chủ chuyên chế vốn dĩ
được khoác áo “ân sủng của Thượng Đế”. Thành quả đó đã có sự tham gia vô
cùng tích cực của thuyết duy lý nói chung và các công trình triết học
của Descartes nói riêng. Điều đáng ngạc nhiên là, dù René Descartes là
một tín đồ Thiên Chúa rất sùng đạo, nhưng với tinh thần đề cao lý tính,
tự do và khoan dung, thuyết duy lý của ông không hề thừa nhận vai trò
của Thượng Đế trong quá trình đi đến nhận thức.
René Descartes, cũng như nhiều nhà duy lý tiếng tăm khác như Leibniz
hoặc Spinoza, không chỉ là triết gia mà còn là nhà toán học vốn bị lôi
cuốn bởi sự chính xác, rõ ràng và chắc chắn. Phán đoán của toán học luôn
luôn mang tính hiển nhiên và bất biến. Descartes không thấy tính chất
đó trong các ngành khoa học khác, vì thế chúng đều đáng nghi ngờ. Triết
học cho đến thời điểm đó, theo Descartes, cũng đáng nghi ngờ không kém.
Vì thế, Descartes tự đặt cho mình một nhiệm vụ, ấy là thay đổi tận
gốc phương pháp tư duy triết học, xa rời chủ nghĩa kinh viện, hạ bệ tư
tưởng bi quan của thuyết hoài nghi vốn cho rằng không hề có chân lý, hay
ít ra là chân lý khó nhận thức được. Descartes chờ đợi ở triết học cũng
như từ chính mình là phải thiết lập những nguyên lý căn bản đầu tiên có
giá trị phổ quát về nhận thức, mà chân lý và tính chắc chắn của chúng
không thể bị nghi ngờ. Descartes đòi hỏi rằng, các ngành khoa học khác
cũng phải có một nền tảng triết lý chắc chắn như thế. Đó cũng là sự
nghiệp mà Descartes theo đuổi suốt đời[14].
Nhưng khi nói đến thuyết duy lý, trước tiên chúng ta cần phá tan
những ngộ nhận dẫn đến sự đánh giá sai lạc và hạ thấp thuyết duy lý. Đó
là quan niệm cho rằng, thuyết duy lý không gì khác hơn là một nền triết
học mang tính khái niệm thuần túy. Đó là một quan niệm sai lầm mà chúng
ta cũng dễ dàng nhận thấy khi khảo sát trên cả hai phương diện: Thuyết
duy lý như là nền tảng của lý thuyết nhận thức, và thuyết duy lý như là
phương pháp. Về nền tảng của lý thuyết nhận thức, thuyết duy lý không
phải là một triết học mang tính khái niệm hoặc là xem mọi tri thức đều
bắt nguồn từ lý tính một cách tuyệt đối. Điều này chúng ta có thể thấy
rõ trong các tác phẩm của Descartes. Ông cho rằng, kinh nghiệm cũng là
một yếu tố cần xét đến để đạt đến nhận thức. Ông công kích cả những
triết gia duy lý vốn xem chân lý có nguồn gốc từ tâm trí riêng của họ.
Trên quan điểm nhận thức luận, thuyết duy lý có nguồn gốc sâu xa hơn
nhiều. Nó liên quan đến một vấn đề logic và hữu thể học quan trọng, đó
là thuyết tiên nghiệm. Và đây chính là vấn đề vô cùng thiết thân mà mọi
triết gia duy lý đều ấp ủ trong tim[15].
Người duy lý tự định hướng theo các tính chất gương mẫu của toán học,
đó là sự rõ ràng và tính chính xác. Giống như toán học, các nhà duy lý
cho rằng có những nhận thức thuần lý tính, gọi cách khác là nhận thức
tiên khởi, a priori, độc lập với kinh nghiệm có được thu lượm
từ cảm quan hay không. Điều đó cũng xuất phát từ những ý niệm đã hiện
hữu từ lúc sinh ra. Descartes đạt đến nguồn gốc của nhận thức bằng cách
nghi ngờ tất cả. Ý niệm và nhận thức có thể bị nhầm lẫn, nhưng bản thân
của chính sự nghi ngờ thì không. Câu nói “tôi tư duy, tức là tôi hiện hữu” đã trở thành căn bản của triết học Descartes, qua đó ông đưa ra giả thiết rằng, cái tôi tư duy
mang tính hiện hữu, độc lập với thế giới vật chất bên ngoài, và rằng đã
có một nhận thức có sẵn lúc con người vừa được sinh ra, độc lập với mọi
kinh nghiệm sau này[16]. Ngoài ra, cái tôi tư duy
còn mang một giá trị lịch sử khác: Nhận thức của con người không còn
phụ thuộc vào sự sắp đặt của Thượng Đế, mà chỉ phụ thuộc vào tư duy của
chính bản thân mình. Nói cách khác, Descartes đã khởi động quá trình
tách Thượng Đế ra khỏi triết học, điều mà trước đó chưa ai đặt ra và chỉ
trong vòng một thế kỷ sau đã trở thành hiện thực trong thời đại khai
sáng.
Thuyết duy lý là luồng triết học có ảnh hưởng lớn nhất tại châu Âu
trong thế kỷ 17. Những đại biểu tiên phong và sáng giá nhất của thuyết
duy lý trước hết tất nhiên là René Descartes người Pháp, kế đó là
Gottfried Wilhelm Leibniz người Đức và Baruch de Spinoza người Hà Lan.
Ngoài ra có thể kể thêm Thomas Hobbes, mặc dù đặc trưng của triết học
Hobbes nổi bật hơn ở thuyết duy nghiệm. Ngoài ra còn có nhiều triết gia
danh giá khác.
Descartes cho rằng, nền tảng vững chắc của mọi nhận thức đều xuất
phát từ tư duy của con người, tức là từ lý tính. Và đó chính là cội
nguồn, là nơi sinh thành của thuyết duy lý. Đồng thời, với sự giải thoát
ra khỏi sự ràng buộc với Thượng Đế mà con người cảm thấy không cần sự
có mặt của Ngài, thuyết duy lý cũng ghi dấu bước khởi đầu của triết học
hiện đại, xác định một vị trí không thể nhầm lẫn của triết học trong
tương quan với thần học. Vì thế, Descartes không chỉ là người khai sinh
ra thuyết duy lý, mà còn xứng đáng được gọi là vị tổ phụ của phương pháp
tư duy hiện đại.
Những triết gia duy lý có niềm tin vững chắc rằng, nhận thức về chân
lý trong thế giới thực không phải được chắt lọc từ kinh nghiệm, cũng
không đặt nền tảng trên tri giác thu nhận được khi làm công việc nghiên
cứu thiên nhiên, mà nhận thức về chân lý chỉ xuất phát duy nhất từ lý
tính. Vì thế mới có tên Rationalism để chỉ thuyết duy lý. Thuật ngữ đó vốn có nguồn gốc từ tiếng la-tinh “Ratio”,
tức là lý tính. Theo các triết gia duy lý, nhận thức trong thế giới
thực mang tính cấu trúc rất hợp lý, vì thế chúng cũng dễ dàng được khám
phá bởi lý tính, hoặc chí ít là những điều cơ bản nhất của nhận thức để
từ đó, những điều khác cũng được soi sáng nhờ việc sử dụng những nguyên
lý chặt chẽ như các nhà toán học vẫn thường làm. Nói cách khác, người
duy lý có niềm tin tuyệt đối vào lý tính con người như là gốc rễ của
nhận thức. Đó chính là đặc trưng của các triết gia duy lý.
Triết gia Baruch de Spinoza còn phát biểu cực đoan hơn, rằng phương
pháp tư duy chặt chẽ của toán học và sự gắn chặt vào lý tính là con
đường duy nhất để đạt đến sự nhận thức. Học giả đa ngành Gottfried W.
Leibniz sử dụng một mô hình cụ thể trong đời sống để lý giải sự liên hệ
giữa lý tính và nhận thức. Mô hình đó là ngôn ngữ, vốn được thành hình
bằng sự phối hợp chặt chẽ giữa các chữ cái và văn phạm. Sự nối kết các
chữ cái lại với nhau thông qua những quy ước nhất định sẽ tạo nên từ
ngữ, thuật ngữ, câu kéo mà khi liên kết với nhau, chúng có thể diễn đạt
tất cả những gì tồn tại trong ý thức con người. Bằng cách làm tương tự,
tất yếu chúng ta có thể sử dụng các chữ cái như là nguyên tố, kết hợp
với văn phạm như các quy ước liên kết để biên soạn toàn bộ tri thức đang
hiện hữu và có thể sẽ hiện hữu. Nếu có một ngộ nhận nào đó sau này về
mặt triết học, thì đó cũng chỉ là những sự cố nhỏ có thể được điều chỉnh
dễ dàng[17].
Người theo thuyết duy lý sử dụng một lộ trình thống nhất để tiến đến
sự nhận thức. Trước hết, lý tính phát hiện những quy luật tổng quát mang
tính trường tồn bất biến, rồi từ đó chỉ cần thông qua suy luận, con
người có thể nhận thức các trường hợp riêng lẻ. Điều này rất dễ dàng
được các nhà toán học hưởng ứng. Thí dụ, chỉ cần hiểu những nguyên lý
hoạt động của bảng cửu chương, người ta có thể suy đoán kết quả của các
phép nhân riêng lẻ như 2 x 2 = 4; 13 x 5 = 65. Đó cũng chính là phương
pháp diễn dịch được sử dụng rộng rãi trong khoa học tự nhiên, đặc biệt
trong ngành toán học. Nói cách khác, triết học duy lý đã cung cấp phương
pháp luận cho khoa học tự nhiên, và ngược lại, khoa học trong một mức
độ nào đó cũng có thể trở thành công cụ để kiểm chứng các biện giải
triết học.
Điều làm cho giới học giả phàn nàn là, thuyết duy lý vẫn còn ít nhiều
liên hệ nguồn gốc với truyền thống, vẫn mang âm hưởng của chủ nghĩa
kinh viện, vẫn chấp nhận ảnh hưởng của siêu hình học lên nền tảng lý
luận. Ngoài ra, những người duy lý bị phê phán là cuồng tín với lý tính.
Họ quá đề cao sức mạnh của lý tính trong các lĩnh vực lý thuyết cũng
như thực hành, trong lúc hạ thấp vai trò của kinh nghiệm và lịch sử.
Người duy lý thì phản bác lại và cho rằng, những sai lầm xảy ra có thể
tránh được, nếu lý tính được sử dụng cương quyết hơn và nhiều hơn, chứ
không phải là ít hơn[18].
Kỷ nguyên của thuyết duy lý kéo dài trên dưới một thế kỷ. Với
Gottfried W. Leibniz, thuyết duy lý đạt đến đỉnh cao mới, nhưng dần dần
bị đẩy lùi bởi những luồng triết học mới mẻ hơn như thuyết duy nghiệm
hay thuyết duy tâm (Idealism), song song với việc vươn lên như
vũ bão của khoa học thực nghiệm, nhất là sau những thành công vang dội
của của Isaac Newton vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18 trong lĩnh vực
toán, vật lý và cơ học. Thành công của Newton dựa vào phương pháp kết
nối hài hòa giữa một bên là cách tiếp cận duy lý và suy luận toán học,
bên kia là sự quan sát, đo đạc, kiểm tra cẩn thận các bước đi khảo sát
thực nghiệm[19].
Dù thuyết duy lý đã bị đẩy lùi, nhưng những xung lực mạnh mẽ nhất của
cách suy luận duy lý vẫn còn tiếp tục tác động và chi phối nền triết học
hiện đại kéo dài về sau, nhất là niềm tin vào lý tính, cho dù nó không
còn tính chất tuyệt đối như trước.
Thuyết duy nghiệm
Có thể nói rằng, triết học hiện đại chỉ có thể phát triển mạnh mẽ từ
lúc thuyết duy nghiệm được phổ biến rộng rãi trong giới học thuật. Thông
qua thuyết duy nghiệm, triết học đã làm một vạch ngang đoạn tuyệt với
truyền thống siêu hình học theo tư tưởng Plato-Aristotle, thậm chí ngay
cả thời đại của Leibniz vẫn còn vương vấn ít nhiều với truyền thống cổ
điển. Người đi theo thuyết duy nghiệm không xem tư duy tiên nghiệm là
gốc rễ của nhận thức, mà tất cả đều xuất phát từ thế giới vật chất, được
cảm nhận trước hết bằng giác quan, trước khi chuyển giao chúng cho tư
duy để tạo nên những khuôn mẫu được cất giữ trong tiềm thức, rút ra quy
luật để sử dụng sau này trên con đường đi đến nhận thức.
Thuyết duy nghiệm có gốc rễ từ thời cổ đại. Định nghĩa cổ điển của tư
duy duy nghiệm được Aristotle tóm tắt trong một câu ngắn gọn: Không có
điều gì có thể hiện hữu trong ý thức nếu trước đó nó không được nhận
thức bằng giác quan. Điều đó có nghĩa là, mọi nhận thức đều có nguồn gốc
từ kinh nghiệm, được chắt lọc từ những cảm nhận của giác quan trong quá
khứ. Mãi gần hai ngàn năm sau, thuyết duy nghiệm với tư cách là một hệ
thống triết học bắt đầu vươn lên từ những tiền đề đầu tiên về triết học
tự nhiên của trào lưu phục hưng, tiếp theo là những tiền đề mang tính cơ
học định lượng khi khảo sát về thiên nhiên[20].
Đó là thời kỳ bùng nổ của khoa học tự nhiên với phương pháp nghiên cứu
thực nghiệm áp dụng rất thành công trong các lĩnh vực khoa học ở thế kỷ
16: trong thiên văn học với Copernicus, Galilei, Kepler; trong vật lý
học với Gilbert, Galilei, Stevin; trong y khoa với Paracelsus, Vesalius
v.v… Tất cả các khoa học gia này đều cùng sử dụng phương pháp thực
nghiệm gần giống nhau, vốn dĩ đi theo mô hình tư duy của thuyết duy
nghiệm.
Nhà thiên văn cách mạng đầu tiên, Nicolaus Copernicus dùng phương
pháp quan sát, đo đạc và thử nghiệm, sau đó chuyển giao kết quả cho tư
duy suy luận để rút ra kết luận về cấu trúc vũ trụ, khai sinh thuyết nhật tâm, hạ bệ thế giới quan địa tâm
vốn đã ngự trị suốt gần hai thiên niên kỷ. Nhưng Copernicus cũng như
các nhà nghiên cứu đương thời vốn là những nhà khoa học, không quan tâm
đến những vấn đề triết học trừu tượng, cho nên cũng không đưa ra được
những định đề mang tính quy luật phổ quát. Phải đợi đến cuối thế kỷ 16,
triết gia người Anh vốn nổi tiếng với khẩu hiệu bất tử “tri thức là sức mạnh”, Francis Bacon mới tổng kết, hệ thống hóa những khuôn mẫu tư duy của con người khi đi tìm chân lý, từ đó, phương pháp quy nạp ra đời.
Thế nào là quy nạp theo diễn giải của Bacon? Thí dụ, tôi quan sát và
cảm nhận điều gì đó trong thiên nhiên, rồi khám phá ra một khuôn mẫu nào
đó được lặp đi lặp lại, tôi tạm thời cất giữ nó trong tiềm thức và tìm
kiếm những quy luật nào liên quan đến nhiều khuôn mẫu tương tự, nhờ thế
có thể đi đến một nhận thức rõ ràng khi một vật thể với khuôn mẫu ấy xuất hiện, mặc dù tôi chưa hề thấy vật thể
đó bao giờ. Nhờ phương pháp quy nạp này, tôi có thể biết một con vật
nào đó có bốn chân và biết sủa là chó, chứ không phải là linh dương,
hoặc biết được một con vật có đôi cánh và bay trên trời là chim, chứ
không phải là cá. Với phương pháp quy nạp này, Francis Bacon đã đặt
những viên đá đầu tiên cho thuyết duy nghiệm, đồng thời kiến tạo một
phương pháp nghiên cứu khoa học còn được ưa chuộng cho đến ngày nay.
Đảo quốc Anh kể từ đó vẫn là quê hương cội nguồn của thuyết duy
nghiệm vốn dĩ sẽ được tiếp tục hoàn thiện bởi Thomas Hobbes, John Locke
và David Hume. Từ Anh, thuyết duy nghiệm nhanh chóng lan qua lục địa và
để lại ảnh hưởng sâu đậm lâu dài.
Hình [3]: Đại biểu cho thuyết duy
nghiệm:Francis Bacon (1561-1626), Thomas Hobbes (1588-1679), John Locke
(1632-1704), David Hume (1711-1776)
Nếu Francis Bacon với phương pháp quy nạp đã đặt những viên đá đầu
tiên cho thuyết duy nghiệm, thì John Locke mới thực sự là người khai
sinh ra nó. Với tác phẩm Khảo luận về giác tính con người[21],
Locke đã cung cấp một văn bản nền tảng cho thuyết duy nghiệm. Khác với
thuyết duy lý vốn cho rằng, ý niệm đã hiện hữu từ lúc con người mới sinh
ra, các triết gia duy nghiệm phản bác rằng, lý tính cũng chỉ là sản
phẩm của kinh nghiệm, chứ không thể xem là công cụ phổ quát và mang tính
chắc chắn để có thể sử dụng trên đường đi đến nhận thức. Với sự xuất
hiện của Locke, thuyết duy lý bắt đầu bị đẩy vào thế thủ, có lẽ ngoại
trừ ở Đức, nơi mà ảnh hưởng của trường phái Leibniz và Wolff vẫn còn kéo
dài thêm một thời gian.
Lý thuyết của John Locke dựa trên nhận thức cơ bản rằng, tâm trí của đứa trẻ mới sinh trống rỗng như một tờ giấy trắng, một tabula rasa, không có một vết tích nào, cũng không có một ý niệm nào[22].
Vậy nó được lấp đầy bằng cái gì? Theo John Locke, toàn bộ nhận thức của
con người chỉ bắt đầu phát triển sau khi kinh nghiệm được thu thập qua
thời gian, gọi là cảm xúc với thế giới vật chất bên ngoài (sensation).
Chúng là chất liệu được cung cấp để phục vụ cho các hoạt động tiếp theo
của tinh thần như suy nghĩ, phân tích, tổng hơp, tin tưởng, nghi ngờ,
nói chung là sự phản tỉnh bên trong ý thức (reflexion).
Từ hai loại kinh nghiệm bên ngoài và bên trong đó, những ý niệm giản
dị trước hết được thành hình, thí dụ màu sắc, hình dáng, trạng thái v.v…
Tiếp theo, nhiều ý niệm giản dị có thể phối hợp với nhau, kết hợp với
những cảm xúc mới, những phản tỉnh mới, những mối liên hệ mới được bổ
sung để tạo nên những ý niệm phức tạp hơn, chi tiết hơn, chính xác hơn,
và cả những quy luật liên quan cũng được khám phá. Thí dụ, với phương
pháp đó và sau khi quan sát ánh mặt trời trong nhiều ngày, chúng ta có
thể quả quyết rằng, mặt trời luôn luôn mọc từ phương đông. Đó là một quy
luật bất biến được nhận thức từ sự quan sát những trường hợp đặc thù
trong quá khứ. Cho nên, cách làm như thế được gọi tên là phương pháp quy
nạp.
Tuy nhiên, John Locke không phải là triết gia duy nghiệm thuần túy.
Bên trong tư tưởng của Locke đã hàm chứa những nhân tố duy lý. Tri thức
được thu thập từ hai nguồn: thứ nhất là môi trường chung quanh chứ không
phải do di truyền, và thứ hai là lý tính chứ không phải là niềm tin.
Cách nhìn thực tế của Locke và thuyết duy nghiệm của ông đã đặt ông vào
giữa những người duy lý. Locke tin rằng, lý tính con người dù không giải
thích được mọi vấn đề trong vũ trụ, nhưng có thể lý giải những gì mà
con người cần biết. Ông viết: Ngọn nến đốt cháy trong lòng chúng ta tỏa
đủ ánh sáng để soi rọi những mục đích mà ta muốn đạt đến[23].
Sau Locke, David Hume đưa thuyết duy nghiệm đến đỉnh cao mới, bắt đầu
từ giữa thế kỷ 18. Nếu như John Lock quá khoan nhượng với truyền thống,
thì những phê phán của Hume đã cung cấp một lực đẩy mang tính cách mạng
để hoàn tất thuyết duy nghiệm với những tính chất mà nó cần phải có.
Phê phán của Hume rất sắc bén và quyết liệt, và ý muốn hệ thống hóa
luồng triết học này cũng được thực hiện với quyết tâm cao. Hume không
ngần ngại gọi siêu hình học là một công trình xảo quyệt, luôn núp bóng
sau những lùm cây tối tăm để sẵn sàng xông ra áp đảo tinh thần con người
bằng định kiến và nỗi sợ hãi tôn giáo[24].
Với David Hume, thuyết duy nghiệm đã dứt khoát đoạn tuyệt với truyền
thống siêu hình học của châu Âu, từ Heraclitus thời cổ đại xuyên suốt
đến Leibniz thế kỷ 18. Đồng thời, Hume cũng khởi động quá trình phát
triển vốn sẽ dẫn đến nền triết học hiện đại đối nghịch với siêu hình học
truyền thống. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, qua lối phê phán cực đoan
đối với siêu hình học truyền thống, Hume đã mang lại không ít phiền toái
cho thuyết duy nghiệm và cho chính bản thân ông sau này.
Công trạng của Hume không chỉ là vạch một lằn ranh rõ rệt với siêu
hình học cổ điển, mà điều quan trọng là ông đã hoàn tất và hệ thống hóa
triết học duy nghiệm bằng cách tương đối hóa các biện giải cơ bản, tránh
cho việc thuyết duy nghiệm có thể rơi vào ngõ bí khi phải đối mặt với
các vấn đề phi thực nghiệm. Tiền đề này đã được John Locke nêu lên một
cách tổng quát, nhưng chính Hume là người hoàn tất, hệ thống hóa và tích
hợp nó vào thuyết duy nghiệm. Điều này xuất phát từ thuyết hoài nghi
“chừng mực” của Hume mà tự bản chất là khác với thuyết “hoài nghi quá
đáng” cổ đại theo nghĩa của Pyrrho of Elis (Pyrrhonism). Theo
Hume, mỗi một bằng chứng vốn dĩ có thể dẫn người ta đến nhận thức đều
hàm chứa một khả năng là nó sai lạc hoặc dễ nhầm lẫn[25].
Với David Hume, chỉ còn có con người, và nhận thức của họ là một cái
gì đó giống như một bức tranh. Thuyết hoài nghi nêu lên giả thiết rằng,
cảm nhận đã mong đợi của chúng ta vốn dĩ có thể xảy đến, nhưng cũng
không có gì là chắc chắn để biết trước. Vấn đề là, không có điều gì có
thể chứng minh được, do đó đối với Hume, tất cả các khoa học thực tế và
đặc biệt là khoa học tự nhiên cũng giống như một sự tin tưởng. Ở đây
không có một sự diễn đạt rõ ràng nào như trong quan điểm lý tính, mà
cùng lắm là những biện giải vốn chỉ có giá trị xác suất[26].
Nếu mặt trời đã mọc ở phương đông suốt cả tháng, thì cũng không thể
đoan chắc rằng ngày mai nó không mọc ở phương tây. Kinh nghiệm của chúng
ta càng nhiều bao nhiêu thì độ xác suất càng lớn bấy nhiêu, nhưng ngay
cả với mức độ quy nạp hoàn hảo nhất, thì kết quả vẫn luôn luôn mang tính
xác suất, không có gì là chắc chắn[27].
Từ thời cổ đại, Platon đã phê phán tư duy duy nghiệm là ảo tưởng, vì
không có điều gì có thể chứng minh được. Tuy nhiên, kể từ thế kỷ 17, với
sự phát triển vũ bão của khoa học tự nhiên, việc chứng minh điều gì đó
đúng với sự thật là chuyện khả thi. Trong ý nghĩa này, giữa triết học
duy nghiệm và phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên có một mối quan
hệ hữu cơ qua lại. Cả hai đều nương tựa vào nhau và phát triển song song
suốt một thời gian dài.
Mặc dù thuyết duy nghiệm không có những bậc thầy vĩ đại như thuyết
duy lý, nhưng nó lại được đón nhận nồng nhiệt trong giới khoa học gia,
những người đang mày mò đi tìm phương pháp nghiên cứu, giúp họ vượt qua
thói quen của nền khoa học cổ đại để đưa khoa học hiện đại lên đỉnh cao,
phù hợp với những tri thức khoa học mới mẻ và ngày càng nhiều. Và cũng
chính nhờ thành quả dồn dập của khoa học trong thời đại khai sáng, mà
thuyết duy nghiệm càng củng cố và nâng cao vị trí của mình trong những
tòa lâu đài triết học lúc ấy. Nói cách khác, thuyết duy nghiệm vừa là
nhân, cũng vừa là quả của phương pháp khoa học ngày càng định hình rõ
rệt trong hai thế kỷ 17 và 18, vì thế thuyết duy nghiệm xứng đáng có chỗ
đứng trang trọng trong thời đại khai sáng.
***
Thoạt nhìn qua hai luồng triết học ở trên, thuyết duy lý và duy
nghiệm có vẻ đối chọi nhau như nước với lửa, khó lòng tồn tại trong một
lâu đài triết học duy nhất. Từ khi thuyết duy nghiệm ra đời và tuyên
chiến với thuyết duy lý, cuộc đấu tranh giành giật ấy đã để lại một bãi
chiến trường vô cùng lớn trong lịch sử tranh luận triết học, tác động
lên hầu hết mọi mặt trong đời sống văn hóa, nhất là những tranh luận
liên quan đến câu hỏi vô cùng quan trọng của thế kỷ 17 và 18: Với phương
pháp nào và làm thế nào để hoạt động khoa học được khả thi?
Nhưng qua sự khảo sát quá trình phát triển của lịch sử học thuật suốt
nhiều thế kỷ, chúng ta phát hiện một điều lạ lùng là cả hai luồng triết
học duy lý và duy nghiệm xem ra rất đối nghịch lại tồn tại song song,
cả hai đều được giới học thuật ưa chuộng rộng rãi, cả hai đều tham gia
vào quá trình phát triển mọi mặt trong xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học tự nhiên. Điều này đạt được cũng do công trình phân
tích và tổng hợp của các triết gia đi sau, trước hết với David Hume bắt
đầu từ tiền bán thế kỷ 18, và sau đó là Immanuel Kant ở hậu bán thế kỷ.
Có những phản biện đánh đúng vào cốt lõi của hai thuyết, một bên là
phê phán gốc rễ của thuyết duy lý: “không có ý niệm bẩm sinh, ngay cả lý
tính cũng là sản phẩm của kinh nghiệm” và bên kia là đối với thuyết duy
nghiệm: “cảm xúc từ thế giới bên ngoài có thể là ảo giác; không có gì
có thể chứng minh được”. Trong ý nghĩa đó, Immanuel Kant đưa ra một định
nghĩa mới cho rằng, có ý niệm bẩm sinh cũng như nhận thức xuất phát từ
lý tính thuần túy, ông gọi đó là nhận thức tiên nghiệm (a priori),
đồng thời cũng có nhận thức được rút tỉa từ kinh nghiệm, biến thành
giác tính và được xác minh bởi lý tính, Kant gọi đó là nhận thức hậu
nghiệm (a posteriori). Với biện giải của Kant về sự tồn tại của
cả hai loại nhận thức này vào hậu bán thế kỷ 18, thuyết duy lý và duy
nghiệm đã thoát ra khỏi ngõ bí, giảm bớt những tranh luận ồn ào suốt hơn
một thế kỷ để cùng tồn tại song song, chừng mực nào cũng có thể nói là,
cả hai đã có sự thỏa hiệp cộng sinh.
Giả thiết nói trên đã được nhà khoa học đa năng, Isaac Newton chứng
nghiệm bằng khoa học khi hoàn tất lý thuyết về vũ trụ trước đó nhiều
thập niên. Từ thế kỷ 16, Copernicus, Galilei và Kepler đã dùng phương
pháp thực nghiệm để diễn giải thuyết nhật tâm, nhưng vẫn còn những câu
hỏi chưa thể trả lời về sự chuyển động của các hành tinh, nhất là câu
hỏi, liệu các hành tinh có thể thoát ra khỏi quỹ đạo và va chạm nhau?
Phải đợi đến hậu bán thế kỷ 17, lúc Isaac Newton khám phá những định lý
căn bản về trọng lực như là sức hút và lực ly tâm như là sức đẩy, rồi
kết hợp với phương pháp toán học thuần lý, lúc đó Newton mới có thể đưa
ra lời giải cuối cùng có giá trị đến hôm nay về cấu trúc của vũ trụ, và
câu hỏi ở trên cũng được trả lời dứt khoát: các hành tinh sẽ mãi mãi
chạy trên quỹ đạo của chúng và không bao giờ va chạm nhau.. Như vậy, có
phải phương pháp nghiên cứu thực nghiệm vốn đặt trên nền tảng của
thuyết duy nghiệm đôi lúc cũng chỉ cho kết quả tương đối, hạn chế, và nó
cần được bổ sung thêm bằng suy luận toán học và vật lý, vốn là công cụ
hữu hiệu của thuyết duy lý. Sự thỏa hiệp cộng sinh của hai luồng triết
học này dường như là điều rất có ích để giải quyết các vấn đề phức tạp.
Dù sao thì từ cuối thế kỷ 18, cả hai thuyết duy lý và duy nghiệm chỉ
còn ảnh hưởng chủ yếu trong thế giới khoa học. Trong lĩnh vực triết học
kể từ thế kỷ 19, thuyết duy lý và duy nghiệm dù chưa bị lãng quên, nhưng
đã trở nên lu mờ và phải nhường chỗ cho những luồng triết học mới mẻ
hơn, hiện đại hơn.
Bên cạnh hai luồng triết học lớn nói trên, hai thế kỷ khai sáng chứng
kiến những hoạt động vô cùng nhộn nhịp trong lĩnh vực triết học. Số
lượng sách triết được xuất bản hàng năm ngày càng tăng, trong lúc sách
thần học ngày càng giảm. Hàng chục, nếu không nói là hàng trăm triết gia
mà tiếng tăm vượt ra ngoài ranh giới quốc gia, xuất hiện một cách tự
tin và kiêu kỳ, dần dần thay thế vị trí của các học giả thần học vốn đã
thống trị thế giới học thuật suốt cả hơn ngàn năm. Nhiều hệ thống triết
học mới được ra đời, hệ thống này kế tiếp hệ thống khác. Hai thế kỷ 17
và 18 có thể gọi là thời đại hoàng kim của triết học, là thời kỳ trăm
hoa đua nở đánh dấu giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử phát triển tư
tưởng châu Âu.
Đỉnh cao của sự phát triển ấy không tách rời khỏi sự ra đời của Bách khoa Toàn thư[28]
bắt đầu từ năm 1751. Thời gian biên soạn và xuất bản kéo dài 20 năm với
tổng cộng 28 bộ sách, hơn 70.000 tiểu tựa và hơn 3.000 tranh vẽ và khắc
họa công phu. Trước đó ở Anh, Pháp và Đức đã có những bộ sách tương tự,
nhưng bộ Bách khoa Toàn thư của Diderot và D’Alembert vượt lên trên tất
cả, trở thành cẩm nang của việc tự khai sáng[29],
chiếm ngự vị trí độc tôn về giá trị của nguồn cung cấp tri thức đầy đủ
nhất cho đến hậu bán thế kỷ 20, sau khi thế giới chúng ta đã được số
hóa. Những người chủ xướng nhóm bách khoa xác định mục đích rất rõ rệt:
Tiến đến sự độc lập hoàn toàn đối với vương triều, giáo hội và giới quí
tộc. Diderot viết trong lời nói đầu tập I: “… chúng tôi muốn đưa toàn bộ
tri thức loài người đến tay mọi người, vì tri thức làm cho con người
độc lập hơn, tạo nên sức đề kháng chống lại thành kiến, mê tín và ngu
muội, và sau cùng tri thức làm cho con người có năng lực lãnh đạo quốc
gia”. Lý tưởng của các học giả bách khoa là kịp thời nắm lấy cơ
hội để trở thành lực lượng lãnh đạo về học thuật, không phải để phục vụ
cho một tầng lớp độc giả giới hạn nào đó, mà để phổ biến tri thức đến
tận tay mọi người, trong mọi lĩnh vực, từ triết học, văn chương nghệ
thuật, khoa học và các ngành nghề trong xã hội[30].
Hình [4]: Trang bìa của Bách khoa Toàn thư tập I (trái)
và tranh khắc họa về khai sáng ở đầu chương (phải).
Một đặc trưng khác của triết học thời đại khai sáng là sự cố gắng
diễn đạt tư tưởng triết học bằng phong cách phi hàn lâm. Trong trào lưu
khai sáng, triết học nhận lãnh trách nhiệm tìm lời giải cho các câu hỏi
liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học và đời sống thường nhật trong xã
hội. Cho nên, các biện giải triết học khai sáng ít khi đứng riêng lẻ một
mình, mà thường có liên hệ đến cách đặt vấn đề trong ngữ cảnh thần học,
văn chương, văn hóa, xã hội và cả khoa học tự nhiên[31].
Với tính chất đó, triết gia khai sáng tận dụng nhiều phương tiện khác
nhau để chuyển tải tư tưởng, thí dụ như văn thơ, tiểu thuyết và đã có
những thành công bất ngờ khi triết học được lồng trong ngữ cảnh văn
chương phi hàn lâm. Vài tác phẩm bất hủ nhất có thể kể là Lá thư Ba Tư[32] (1721) của Montesquieu, Candide (1759) của Voltaire, Emile
(1760) của Jean-Jacques Rousseau. Đó là những tác phẩm văn chương có
giá trị phi thời gian, sáng tác với mục đích chuyển tải nội dung triết
học liên quan đến những vấn đề thiết thân trong xã hội đương thời[33] bằng phong cách đặc biệt mà như Voltaire nói về một cuốn sách hay: tò mò, trào lộng, đạo đức, thâm thúy.
Ngoài ra, các triết gia khai sáng đã có ý thức phần nào về việc biến
triết học hàn lâm thành triết học phổ thông với mục đích đưa triết học
đến công chúng rộng rãi qua những hình thức dễ tiếp thu. Triết gia đã
biết sử dụng từng phương tiện có thể tiếp cận được để thâm nhập đến từng
lớp người, vào từng ngóc ngách của xã hội.
Trong thời đại khai sáng, lần đầu tiên kể từ thời kỳ cổ đại, triết
học không còn là một lĩnh vực trừu tượng chỉ dành cho một thiểu số học
giả nào đó, mà đã mang tính chất thực hành, gần gũi với đời sống thế tục
trong xã hội. Cũng là lần đầu tiên, triết học không còn bị đóng khung
trong khuôn viên đại học hoặc các môi trường học thuật. Triết học thời
đại khai sáng đã thâm nhập vào mọi hoạt động của đời sống, đã trở thành
chất liệu sống của mọi lớp người trong xã hội. Khai sáng trước hết có
nghĩa là tự mình tư duy, chứ không giao khoán số phận của mình cho sự
dẫn dắt của các định chế vương quyền và tôn giáo. Lý tính trở thành yếu
tố quan trọng hàng đầu trong việc định hướng suy nghĩ và hành động của
con người trong cuộc sống.
Thực ra, kể từ thế kỷ 13, lúc hàng loạt đại học được thành lập khắp
nơi từ Lisboa sang Kraków, từ Rome lên tới London, triết học đã là một
phân khoa độc lập và quan trọng, nơi mà mọi sinh viên đều đặt chân đến
trước khi chọn một chuyên ngành nào khác. Nhưng nơi đó và trong thời kỳ
đó, các vị giáo sư mang đến cho sinh viên không gì khác hơn là những tư
duy khuôn sáo của chủ nghĩa kinh viện, có người thì hướng dẫn thêm cho
sinh viên về lo-gic của toán học, người khác thì liên kết triết học và
thần học một cách khiên cưỡng. Phải đợi đến thế kỷ 17, bước sang thế kỷ
18, triết học mới lấy lại vai trò đích thực của nó. Dưới ánh sáng của lý
tính, triết học trong thế kỷ 18 bắt đầu đặt trọng tâm vào việc xây dựng
lề lối tư duy có cấu trúc. Thần học, vốn trước đây là khoa học chủ đạo
trong giới học giả, giờ đây phải thoái lui. Triết học hiện đại đã thực
sự nắm vai trò lãnh đạo tinh thần, chuyện trước đây hàng ngàn năm chưa
từng xảy ra.
Những khẩu hiệu nổi bật trong các dòng triết học của thời đại khai
sáng là lý tính, luật tự nhiên, tiến bộ, khoan dung, nhân quyền, khoa
học, nhân bản và tự do. Những khẩu hiệu đó cũng biểu lộ sự từ chối dứt
khoát các thế lực thống trị cổ điển[34], mà nếu gọi đích danh trong thế kỷ 17 và 18, thì đó là vương triều và giáo hội.
Mỗi khẩu hiệu ở trên là một đề tài cần khảo sát nghiêm túc, cho nên
xin tạm chấm dứt ở đây và hẹn dịp khác. Bài này tuy bàn về triết học,
nhưng chỉ xét trên quan điểm lịch sử, chứ không đào sâu khảo sát các
triết gia và những triết thuyết liên hệ. Độc giả nào quan tâm đến tư
tưởng của các triết gia hàng đầu trong thời đại khai sáng, nhưng không
có điều kiện đọc sách kinh điển của các triết gia đó, có thể tham khảo
thêm danh sách các nguồn tham khảo ghi bên dưới, đặc biệt vài tài liệu
sau đây có thể xem là hữu ích:
J. Hirschberger: Trang 88 – 266.
O. Höffe: Trang 262 – 456.
H. Maier: Trang 15 – 72.
B. Redhead & J. Starbatty: Trang 137 – 212
Metzler Verlag: Cuộc đời và tư tưởng của 60 triết gia trong
đó có trên dưới 15 triết gia khai sáng nổi bật nhất được trình bày tóm
tắt trong tác phẩm này.
Tác giả: Tôn Thất Thông, Tháng giêng 2022.
🌼🌼🌼🌼🌼🌼🌼🌼🌼🌼
(Xin tham khảo thêm : các bài cùng tác giả về thời đại khai sáng)
Tài liệu tham khảo
- Brinton, Crane; Christopher, John B. và Wolff, Robert Lee: A history of civilization – 1715 to the present. ISBN 0-13-389593-9. (Lịch sử văn minh – 1715 đến hôm nay).
- Bùi Văn Nam Sơn: Trò chuyện triết học. Nhà xuất bản Tri Thức, 2012.
- Conradt, Michael: Pure Vernunft – Die Philosophie des Rationalismus (Lý tính thuần túy – Triết học duy lý). Video: https://www.youtube.com/watch?v=ABF6xa96pqI&t=426s
- Hazard, Paul:
European Thought in the Eighteenth Century (Tư tưởng châu Âu thế kỷ
18). Pelican Book 1965 (J. Lewis May dịch từ tiếng Pháp: La Pensée
européenne au XVIIIè siècle: de Montesquieu à Lessing).
- Herold, Theo và Wittenberg, Hildegard: Aufklärung & Sturm und Drang (Khai sáng & Bão táp và Thúc dục – Tủ sách Lịch sử văn học Đức). ISBN 3-12-347221-6.
- Hirschberger, Johannes:
Geschichte der Philosophie – Band II: Neuzeit und Gegenwart (Lịch sử
triết học – Tập II: Thời cận và hiện đại). ISBN 3-933366-00-3). Có thể
tham khảo thêm trọn bộ tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt: Lịch
sử triết học Tập I & II – Bùi Văn Nam Sơn và tập thể dịch giả – NxB
Tri Thức.
- Höffe, Otfried chủ biên và nhiều tác giả: Klassiker der Philosophie II (Những nhà kinh điển của triết học, Tập II). ISBN 3-406-30849-X.
- Im Hof, Ulrich: Das Europa der Aufklärung (Châu Âu trong thời đại khai sáng). ISBN 3-406-37091-8.
- Maier, Hans và Denzer, Horst: Klassiker
des Politischen Denkens, Vol. 2: Von Locke bis Max Weber (Những triết
gia chính trị kinh điển. Tập 2: từ Locke đến Max Weber). ISBN
3-406-42162-8.
- Mann, Golo và Nitschke, August: Weltgeschichte
Band VII – Von der Reformation zur Revolution (Lịch sử thế giới bộ VII –
Từ cải cách tôn giáo tới cách mạng). ISBN 3-549-05017-8.
- Martus, Steffen: Aufklärung – Das deutsche 18. Jahrhundert (Khai sáng – Nước Đức trong thế kỷ 18). ISBN 978-3-499-62767-5.
- Metzler Verlag chủ biên và nhiều tác giả: Philosophen (Những triết gia). ISBN 3-476-02026-6.
- Porter, Roy (1): Enlightenment
– Britain and the creation of the modern world (Khai sáng – Anh quốc và
sự thành lập thế giới hiện đại). ISBN 0-14-025028-X.
- Porter, Roy (2): Kleine
Geschichte der Aufklärung (Lịch sử ngắn về Khai sáng – Ebba D.
Drolshagen dịch từ tiếng Anh: The enlightenment, xuất bản 1990). ISBN
3-8031-2192-2.
- Redhead, Brian và Starbatty, Joachim:
Politische Denker von Plato bis Popper (Những nhà tư tưởng chính trị từ
Plato đến Popper). ISBN 3-87959-316-7 (Gerhard Raabe dịch từ tiếng Anh:
Political thoughts from Plato to Popper – BBC Books Publications 1984).
- Schneiders, Werner (1) chủ biên và nhiều tác giả: Lexikon der Aufklärung (Từ điển tường giải về khai sáng). ISBN 3-406-39920-7.
- Schneider, Werner (2): Zeitalter der Aufklärung (Thời đại khai sáng). ISBN 3-406-44796-1.
- Störig, Hans Joachim: Weltgeschichte der Wissenschaft (Lịch sử khoa học thế giới). ISBN 3-89350-519-9.
- Zimmer, Robert: Philosophie von der Aufklärung bis heute (Triết học từ thời đại khai sáng đến nay). ISBN 3-589-21499-6.
Chú thích
[1] Xem S. Martus, trang 99.
[2] Xem G. Mann trang 469 – Fritz Schalk.
[3]
J. Swift (1667-1775) là văn sĩ thường viết truyện theo thể châm biếm
chính trị nổi tiếng của thế kỷ 18. Ông là một giáo sĩ tiến bộ, có phần
nào nổi loạn, một trí thức sáng giá trong văn chương nghệ thuật của trào
lưu khai sáng.
[4] Xem R. Porter (2) trang 21.
[5] Xem „Cách mạng khoa học trong thời đại khai sáng“ ở đây: Phần I và Phần II
[6] Xem W. Schneiders (2) trang 14.
[7] Tinh thần châu Âu ở đây được hiểu là lục địa thống nhất theo tinh thần xứ hoàng hôn (Abendland – Occident).
[8] Xem J. Hirschberger trang 3-4.
[9] Xem J. Hirschberger trang 245.
[10] Xem Im Hof trang 142.
[11] Xem J. Hirschberger trang 86.
[12] Diễn dịch tiếng Anh là Deduction; Quy nạp là Induction
[13] Xem R. Zimmer trang 17.
[14] Xem M. Conradt.
[15] Xem J. Hirschberger trang 87-88.
[16] Xem R. Zimmer trang 21.
[17] Xem M. Conradt.
[18] Xem W. Schneiders (1) trang 340 – Günter Gawlick.
[19] Xem H.J. Störig trang 367.
[20] Xem J. Hirschberger trang 188.
[21] John Locke – An Essay Concerning Human Understanding (1689).
[22] Xem J. Hirschberger trang 202-203.
[23] Xem C. Brinton trang 620.
[24] Xem J. Hersberger trang 223-226.
[25] Xem O. Höffe trang 437.
[26] Xác suất
là lý thuyết toán học khảo sát về biến cố ngẫu nhiên, chỉ cho ta cách
tìm ra kết quả “có thể có hoặc có thể không”, “thế này hoặc thế kia”.
[27] Xem J. Hersberger trang 231.
[28] Encyclopédie, ou dictionaire raisonné des sciences, des arts et des métiers.
Chủ biên: Denis Diderot và D’Alembert (Jean-Baptiste le Rond), cả hai
đều là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Pháp. Hơn 150 tác giả hàng đầu
trong mọi ngành tham gia việc biên soạn.
[29] Xem W. Schneiders (1) trang 102 – Willi Goetschel.
[30] Xem G. Mann trang 494 – Fritz Schalk.
[31] Xem T. Herold trang 24.
[32] Gốc tiếng Pháp: Lettres persanes
[33]
Đây cũng là hình thức khôn khéo để phổ biến tư tưởng hòng qua mặt hệ
thống kiểm duyệt, vì không ai lại trân tráo kiểm duyệt một tác phẩm văn
chương vốn dĩ mang tính chất hư cấu.
[34] Xem J. Hirschberger, trang 245-246.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét