Phan Tấn Hải
Nhà thơ W. S. Merwin vừa từ trần trong một giấc
ngủ hôm 15/3/2019. Trong gần nửa thế kỷ, ông cũng nổi tiếng là một Phật
tử, thực tập theo Thiền tông Nhật Bản. Cuộc đời ông là một điển hình của
giới trí thức Hoa Kỳ thập niên 1960-1970, nhiều người nghiêng về Phật
giáo khi nhìn thấy xã hội Hoa Kỳ tranh cãi về Chiến tranh Việt Nam và
khắp thế giới chiến tranh như dường bất tận.
Nhà phê bình thi ca Reginald Shepherd viết trên
Poetry Foundation về các thi phẩm thời kỳ đầu của Merwin, được viết
trong thời Chiến tranh Việt Nam: “Đó là những bài thơ không được viết
cho một nghị trình [chính trị], nhưng đã thiết lập ra một nghị trình.
Trân trọng giữ gìn và tái sáng tạo thế giới trong những chữ từ ái.
Merwin luôn luôn quan tâm với quan hệ giữa đạo đức và mỹ học, cân nhắc
cả hai phía đồng đều nhau. Thơ của ông là một đáp trả đối với một thế
giới đã tan rã, không phải như những vùng địa lý nhưng là như các sự
kiện thẩm mỹ.”
W. S. Merwin sinh ngày 30/9/1927, từ trần ngày
15/3/2019, đã viết khoảng hơn năm mươi sách về thơ và văn xuôi, cũng như
nhiều dịch phẩm. Khi mới năm tuổi, ông đã bắt đầu viết các lời ca trong
nhà thờ cho thân phụ, một mục sư Tin Lành Presbyterian.
Trong phong trào phản chiến 1960s, thơ của Merwin
viết như chuyện kể gián tiếp, không dấu ngắt câu, mang nhiều hình ảnh
đau đớn, thường ẩn dụ phức tạp.
Như trong bài thơ “The Asians Dying” (Những người Châu Á Đang Chết) dài bốn đoạn, nơi đây chúng ta trích dịch hai đoạn giữa:
Mưa rơi vào những con mắt mở lớn của những người chết
Một lần nữa một lần nữa với âm thanh vô nghĩa
Khi mặt trăng tới chúng là những sắc màu của mọi thứ
Một lần nữa một lần nữa với âm thanh vô nghĩa
Khi mặt trăng tới chúng là những sắc màu của mọi thứ
Những đêm biến mất đi như các vết bầm nhưng không có gì được chữa lành
Những người chết biến đi như các vết bầm
Máu hòa vào đất ruộng đã nhiễm độc
Vẽ lên đường chân trời
Còn lại
Phía trên những mùa màng đá tảng
Chúng là những cái chuông giấy
Âm vang gọi tới bên kia sự sống
Những người chết biến đi như các vết bầm
Máu hòa vào đất ruộng đã nhiễm độc
Vẽ lên đường chân trời
Còn lại
Phía trên những mùa màng đá tảng
Chúng là những cái chuông giấy
Âm vang gọi tới bên kia sự sống
Trong các thập niên 1980 và 1990, thơ của ông mang
đậm màu sắc Phật giáo và gần thiên nhiên. Năm 1976, ông dọn tới Hawaii
để học Thiền với Robert Aitken Roshi. Cư trú ở một miền xa thành thị
trên đảo Maui, tiểu bang Hawaii, ông viết nhiều về việc hồi phục rừng.
Merwin được nhiều giải thưởng văn học, hai lần
được giải Pulitzer về thơ trong năm 1971 và 2009; được giải thi phẩm
National Book Award for Poetry năm 2005, và nhiều giải thơ khác. Đặc
biệt, năm 2010, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ phong ông là Thi hào Hoa Kỳ thứ
17 (the 17th United States Poet Laureate) một cương vị chính thức của
chính phủ liên bang trong nỗ lực gây ý thức người dân về thơ, đọc thơ và
sáng tác thơ.
Phim tài liệu Even Though the Whole World Is Burning (Mặc Dù Cả Thế Giới Đang Bốc Cháy) lưu hành năm 2014 chọn ông là chủ đề chính.
Merwin cũng xuất hiện trong phim tài liệu The Buddha (Đức Phật) của PBS, lưu hành năm 2010. Phim này dài gần ba giờ đồng hồ, đang phổ biến ở YouTube.
Thơ mang tính Phật giáo của ông thường có chủ đề vô thường và thiên nhiên.
Như trong bài thơ “Anniversary on the Island” (Chu niên trên đảo) ông trở thành người quan sát những hình ảnh trên đảo Maui, trích:
ngày lại ngày chúng tôi tỉnh thức với đảo
ánh sáng mọc lên xuyên qua nhưng giọt nước trên lá
và chúng tôi nhớ như những con chim nơi chúng tôi ở
đêm lại đêm chúng tôi chạm hải đảo đen tối
mà một lần chúng tôi từng ra đi để tới
ánh sáng mọc lên xuyên qua nhưng giọt nước trên lá
và chúng tôi nhớ như những con chim nơi chúng tôi ở
đêm lại đêm chúng tôi chạm hải đảo đen tối
mà một lần chúng tôi từng ra đi để tới
Trong bài viết “The Garden & The Sword” (Ngôi
Vườn & Thanh Kiếm), phóng viên Joel Whitney ghi lại trên tạp chí
Tricycle, số mùa đông 2010, cuộc nói chuyện với nhà thơ W. S. Merwin.
Ông kể rằng Thiền sư Nhật Bản thế kỷ 13 và là một
nhà thơ, tên là Muso Soseki, với nhiều bài ông đã dịch sang tiếng Anh,
luôn luôn gợi cảm hứng cho ông. Merwin cũng kể rằng cảm xúc trong lần
đầu tiên đọc Diamond Sutra (Kinh Kim Cương) đã lay động ông mạnh mẽ.
Merwin kể về người cha mục sư, kỷ niệm đi nhà
thờ, học lớp giáo lý Ki tô những ngày Chủ nhật, lắng nghe ngôn ngữ những
bài thánh ca.
Merwin kể duyên khởi dịch về Muso Soseki là sau
khi tới Hawaii, dịch chung với một người Nhật tên là Soiku Shigematsu,
ông quen qua Robert Aitken, vì Merwin không biết tiếng Nhật. Muso là một
Thiền sư dị thường, là bậc thầy môn Kiếm đạo, huấn luyện một người nổi
tiếng là đệ nhất kiếm thủ ở Nhật thời đó.
Tuyển tập thơ của Muso bản tiếng Anh được Merwin đặt nhan đề là “Sun at Midnight” (Mặt Trời Lúc Nửa Đêm)
Chỗ này cũng cần ghi chú, bởi vì trong tiểu sử
chính thức trên Wikipedia của Thiền sư Muso Soseki (1275-1351) chỉ nói
rằng ông nổi tiếng là nhà thơ, nhà thư pháp, người thiết kế vườn, và là
người dạy Thiền Lâm Tế (Rinzai) – từng có hơn mười ngàn Thiền sinh theo
học. Soseki được Hoàng Đế Go-Daigo phong làm Quốc sư, danh hiệu Musō
Kokushi. Có thể chuyện thầy dạy môn Kiếm đạo cho đệ nhất kiếm thủ là do
đời sau ghi lại, như là ngoại sử?
Bên cạnh tác phẩm của Muso Soseki, nhà thơ Merwin
ưa thích đặc biệt Thiền sư Dogen (Đạo Nguyên); Merwin từng viết Lời
Giới Thiệu cho một tuyển tập bản Anh dịch các bài thơ của Dogen.
Ông cũng nói rằng yếu tố thần bí huyền học lôi
cuốn ông, vì bản thân ông không tự gọi mình là Ky tô hữu và không còn
dính gì với Đạo Ky tô, nhưng ông đã từng ưa thích các nhà huyền bí, như
Eckhardt, Plotinus và Spinoza, mà ông nói, “những tác giả này vẫn còn
cực kỳ quan trọng đối với tôi.”
Nhưng trong lứa tuổi ba mươi, ông sững sờ khi đọc tới Kinh Kim Cương.
Merwin nói với phóng viên Whitney:
“Có cái gì đó vượt xa tất cả đó, nằm dưới tất
cả đó, đều cùng chia sẻ, rằng tất cả đều tới từ đó. Tất cả là nhánh
cành, mọc từ một rễ đơn độc. Và đó là cái người ta phải chú ý tới. Và dĩ
nhiên, những chữ thực sự trong Kinh Kim Cương nắm lấy tôi là, khi Như
Lai nói, “Bồ Đề, Như Lai có pháp nào để dạy không?” Và Bồ Đề nói, “Bạch
Thế Tôn, không. Như Lai không có pháp nào để dạy.” Đọc tới chỗ đó, tôi
thấy hơi lạnh chạy dọc xương sống. Và Như Lai nói, “Bởi vì không có pháp
nào để dạy, đó mới là pháp dạy.” Tôi đã nghĩ đúng như thế đó, bạn biết
đấy…” (*)
Nơi này cần phải ghi chú, trong bài nêu trên, ghi
tên vị đương cơ trong Kinh Kim Cương là “Bodhi” (Bồ Đề) – nhưng đúng
ra, các bản dịch kinh này đều ghi là ngài “Subhuti” (Tu Bồ Đề).
Để kết bài này, nơi đây xin dịch bài thơ ngắn,
nhan đề “Do Not Die” (Đừng Chết) của W.S. Merwin. Bài thơ có ngôn phong
thần bí, hình như (dịch giả xin phép suy đoán) là có tư tưởng “tương
tức” (interbeing) thường được Thầy Nhất Hạnh nói tới. Nghĩa là, “anh là
tôi, và tôi là anh” và như thế, không có gì thực sự sinh và thực sự
chết.
Bài thơ “Do Not Die” rất ngắn, dịch như sau:
Trong mỗi thế giới họ có thể đẩy chúng ta
ra xa nhau hơn
Đừng chết
trong khi thế giới này hình thành tôi có thể
sống mãi mãi.
ra xa nhau hơn
Đừng chết
trong khi thế giới này hình thành tôi có thể
sống mãi mãi.
Rất mực trân trọng, xin gửi lời từ biệt nhà thơ Thiền sư W. S. Merwin.
GHI CHÚ:
(*) The Garden & The Sword: “Tathagata [the Buddha] says, “Bodhi, does the Tathagata have a teaching to teach?” And Bodhi says, “No, Lord, Tathagata has no teaching to teach.” At that point I got chills right down my spine.” https://tricycle.org/magazine/garden-sword/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét