Độ
Long Vĩ Giang *
Nguyễn Du (1796-1802)
Cố quốc hồi đầu
lệ,
Tây phong nhất
lộ trần.
Tài qua Long
Vĩ thủy,
Tiện thị dị
hương nhân.
Bạch phát sa
trung kiến,
Ly hồng hải
thượng văn.
Thân bằng tân
khẩu vọng,
Vị ngã nhất
triêm cân.
Dịch nghĩa:
Ngoảnh nhìn quê hương nước mắt rơi,
Gió tây thổi bụi suốt dọc đường.
Vừa qua sông Long Vĩ,
Đã là người đất khách.
Đi giữa bãi cát, càng trông càng rõ mái tóc bạc,
Nghe chim hồng lìa đàn ngoài biển kêu.
Bạn bè thân thích đứng trên bến nhìn theo,
Vì ta mà nước mắt ướt khăn.
*Long Vĩ
giang: chỉ khúc sông Lam ở gần quê hương của cụ Nguyễn Du
phía gần biển
Dịch Thơ:
Qua
Sông Long-Vĩ
Ngoảnh
nhìn lại quê nhà lệ ngấn,
Gió
tây về bụi vẩn đường mờ.
Vừa
qua Long-vĩ bến bờ,
Đã
nghe thân khách bơ vơ vương sầu.
Giữa cát vàng bạc đầu rõ nét,
Nhạn
hồng lạc thảm thiết biển khơi.
Thân
quen dõi mãi bóng người,
Vì
ta khăn ướt lệ rơi khôn cầm.
Mailoc phỏng dịch.
Quê nhà mặt ngoảnh lại,
Gió tây tung bụi đường.
Vừa qua bến Long Vĩ
Thân khách đã sầu vương.
Cát vàng rõ đầu bạc,
Hông nhạn lạc kêu sương.
Người thân còn đứng ngóng,
Vì ta lệ cảm thương .
ML
8-16-17
Bài của Mai Xuân Thanh
Qua Sông Long Vĩ
Nhìn lại cố hương đẫm lệ tràn
Dặm đường bụi bốc gió tây sang
Qua sông Long Vĩ còn chân ướt
Dừng bước quê người cũng ngỡ ngàng
Đầu bạc nổi lên vàng bãi cát
Chim hồng lạc giữa biển kêu đàn
Bạn bè dõi mắt xa bờ khuất
Giọt lệ thấm khăn dạ xốn xang
Quê hương ngoãnh mặt lại
Bụi đường bay gió tây
Qua sông mới Long Vĩ
Xa xứ lạ chân mây
Cát vàng bạc đầu tóc
Hồng nhạn biển khơi bay
Anh em nhìn khuất bóng
Ướt khăn đẫm lệ này
Mai Xuân Thanh
Ngày 16 tháng 08 năm 2017
Bài của Đỗ Chiêu Đức
1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ :
渡龍尾江 Độ Long Vĩ Giang
故國回頭淚, Cố quốc hồi đầu lệ,
西風一路塵。 Tây phong nhất lộ trần.
纔過龍尾水, Tài qúa Long Vĩ Thủy,
便是異鄕人。 Tiện thị dị hương nhân.
白髮沙中見, Bạch phát sa trung kiến,
離鴻海上聞。 Li hồng hải thượng văn.
親朋津口望, Thân bằng tân khẩu vọng,
為我一沾巾。 Vị ngã nhất triêm cân.
西風一路塵。 Tây phong nhất lộ trần.
纔過龍尾水, Tài qúa Long Vĩ Thủy,
便是異鄕人。 Tiện thị dị hương nhân.
白髮沙中見, Bạch phát sa trung kiến,
離鴻海上聞。 Li hồng hải thượng văn.
親朋津口望, Thân bằng tân khẩu vọng,
為我一沾巾。 Vị ngã nhất triêm cân.
阮攸 Nguyễn Du
2. Chú Thích :
* LỆ 淚 : là Nước mắt. Động từ có nghĩa là : Rơi nước mắt.
* TRẦN 塵 : là Cát Bụi. Nhất Lộ Trần là Dọc đường gió bụi.
* TÀI 纔 : là Mới, là Mới vừa.
* TIỆN 便 : là Bèn. Tiện Thị : Bèn là ...
3. Nghĩa Bài Thơ :
Qua Sông LONG VĨ
LONG
VĨ GIANG là khúc sông Lam gần quê hương của Nguyễn Du, cạnh biển. Sông
Lam từ nguồn cho đến ngã ba Hưng Nguyên còn có tên gọi là Thanh Long
giang.
Ngoảnh đầu
trông lại quê hương mà khôn ngăn hai hàng lệ nhỏ. Lại thêm gió tây thổi
suốt dọc đường gió bụi. Vừa qua khỏi sông Long Vĩ thì thân ta đã là
người tha hương rồi. Làn tóc bạc in rõ trên bãi cát trắng và tiếng chim
hồng nhạn lìa đàn còn oang oác ở ven sông. Bạn bè thân thích còn đứng
ngóng trông ta bên bến nước, vì ta mà lệ rơi ướt cả khăn là.
Tình cảm luyến lưu ướt át đến thế là cùng, thảo nào người ta thường bảo Nguyễn Du thuộc "túp" nòi tình chính hiệu !
4. Diễn Nôm :
Ngoảnh đầu quê cũ lệ rơi,
Dọc đường cát bụi tơi bời gió tây.
Vừa qua Long Vĩ mới đây,
Thoát đà đã hóa ra người tha hương !
Tóc mây cát trắng còn vương,
Lìa đàn tiếng nhạn kêu thương não lòng.
Thân bằng bến nước vời trông,
Vì ta ướt cả khăn hồng lệ rơi !
Đỗ Chiêu Đức
Bài Của Song Quang.
Qua bờ sông Long Vỹ
(Phỏng dịch qua nguyên bản"Độ Long Vỹ giang " của cụ Nguyễn Du)
và phần diển giảng của Mai Lộc
Ngó lại quê nhà,nước mắt tuông
Gió Tây thổi bụi mịt mờ đường
Qua sông Long Vỹ thành thân khách
Đất lạ ,xứ người dạ vấn vương
Giữa cát,bạc đầu càng hiện rõ
Chim hồng lạc bạn phải tha phương
Người thân dõi mắt nhìn theo mãi
Khăn lệ khôn nhoà dấu cố hương
songquang.
Baì của Mai Thắng.
QUA SÔNG LONG VĨ
Ngoãnh mặt nhìn quê cũ
Gió tây cuốn bụi đường
Thanh Long vừa quá bến
Lữ thứ đã ly hương
Cát trắng in màu tóc
Chim hồng lạc khúc thương
Bến quê bè bạn tiễn
Khăn lệ dầm hơi sương
Mai Thắng.
1795-1802)Bài của Quên Đi .
Qua Sông Long Vỹ
1/
Lệ đổ nhìn quê hương
Gió Tây tốc bụi đường
Vừa qua Long Vỹ bến
Thành khách lạ tha phương
Trên cát trơ đầu bạc
Tiếng chim ngoài đại dương
Người thân còn đứng tiễn
Buồn ướt đẫm khăn hường.
2/
Ngoái nhìn quê cũ lệ sa
Gió Tây theo bước đường xa bụi mờ
Qua sông Long Vỹ thẩn thờ
Chỉ vừa mới đó mà giờ tha hương
Trên bãi cát rõ tóc sương
Biển khơi vẳng tiếng bi thương chim Hồng
Người thân trên bến còn trông
Khăn đầm nước mắt đau lòng tiễn ta.
Bài của Danh Hửu
Hôm nay cuối tuần, đọc
mấy bản dịch của quí bạn trong vườn thơ, dịch một bài Tâm Thi của Nguyễn Du.
Tôi thấy mình cũng nên đóng góp một chút và nhất là để tặng các anh : Lộc
Nguyên, Trí Khắc Phạm, lý do là tôi đã dịch nhiều thơ của Nguyễn Du, nhất là đã
dịch trọn cả tập Bắc Hành Tạp Lục của ông nên cũng phần nào hiểu thơ ông. Tất
nhiên thơ Nguyễn Du không dễ dịch, vì ông là một trong số 5 người nổi tiếng nhất
đương thời, mà thơ ông lại phần lớn chỉ là thơ bày giải tâm sự, ông không làm
thơ tả cảnh, thơ tả cảnh chỉ có ở trong Kiều.
Mời quí bạn thưởng thức :
渡 龍 尾 江
Độ Long Vĩ Giang
故 國 回 頭 淚 Cố quốc, hồi
đầu lệ;
西 風 一 路 塵 Tây phong, nhất
lộ trần.
纔 過 龍 尾 水 Tài quá Long
Vĩ thủy,
便 是 異 鄉 人 Tiện thị dị
hương nhân.
白 髮 沙 中 見 Bạch phát, sa
trung kiến;
離 鴻 海 上 聞 Ly hồng, hải thượng văn.
親 朋 津 口 望 Thân bằng tân khẩu vọng;
為 我 一 沾 巾 Vị ngã, nhất triêm căn.
阮 攸 Nguyễn Du
Qua cuối khúc sông rồng
Triều Lê, nhớ rơi lệ !
Tây sơn, khổ một thời :
Mới qua khúc Long vĩ,
Đã thành khách quê người.
Cát lầm, tóc trắng xóa;
Biển xa, hồng chơi vơi.
Ngó bà con trên bến;
Khiến ta, khăn đẫm rồi.
Ghi chú :
Bài thơ này nằm ở phần cuối tập
Thanh Hiên tiền hậu tập, là tập thơ gồm hai tập, tập đầu, thơ làm trong vòng 10
năm sống ở quê vợ, tập này còn 26 bài, và tập sau, là làm trong những ngày ông
về sống ở quê cha vùng Nghệ Tĩnh, tập này còn 33 bài và đây là bài thứ 31. Theo
nội dung, ta có thể thấy, bài thơ này làm lúc ông đang sắp muốn rời Nghệ Tĩnh để
đi Huế làm quan.
Thơ Nguyễn Du đa số là thơ tâm sự,
bài này cũng là bài giải bày tâm sự của ông. Nó thể hiện nỗi lòng của ông đối với
chuyện quá khứ mà ông đã phải chịu đựng trước khi ông rẻ bước qua một đời sống
khác, phục vụ một thể chế mới.
Bài thơ này ông làm khi sắp tách
bến, vào đầu bài thơ, ông đã rơi lệ khi nhớ về nhà Lê (cố quốc) và một thời (nhất
lộ) sống dưới phong trào Tây sơn (Tây phong), một triều đại mà cha, anh của ông
đã phục vụ, kể cả ông dù trong thời gian không dài. Cuối bài thơ, ông cũng để lệ
rơi. Một bài thơ mà câu đầu, câu cuối đều nói đến sự mũi lòng, là một bài thơ khá
đặc biệt. Câu đầu, ông khóc cho Triều đại nhà Lê mà ông đã phục vụ, câu cuối,
ông khóc, mừng cho bản thân đã sắp chấm dứt những ngày khổ ải.
Ngoài ra, tựa bài thơ là Độ quá
Long Vĩ Giang, do đó các sách đều dựa theo Lời chú của các ông Lê Thước, Trương
Chính, bảo đó là tên chỉ khúc sông Lam từ ngã ba Hưng Nguyên trở xuống vùng quê
tác giả, còn khúc sông đi qua làng Tiên Điền (làng của Nguyễn Du) thì có tên là
Long vĩ giang. Chúng ta không ở Nghệ Tĩnh, nên không biết lời chú đó có đủ tin
cậy không. Tại sao sông Lam lại có một khúc mang tên là Long Giang, rồi khúc
khác gần biển lại có tên Long vĩ giang ? Nếu đã có Long vĩ tất phải có Long đầu
chứ ! Vậy Long đầu là ở khúc sông nào ? Tôi cho đây chỉ là ông Lê Thước tưởng tượng
ra thôi vì bài thơ này ông đã dịch không thoát. Cụm từ "Long Giang" ở
đây, theo tôi là từ ám chỉ "non sông Việt" chứ không có khúc sông nào
tên là Long giang và Long giang vĩ cả. Long có thể hàm ý Thăng Long, vĩ là cái
đuôi, là cuối đường. Độ quá Long vĩ giang = Đã đi qua hết thời của Thăng Long
(hàm ý nhà Lê). Nghĩa là dù có luyến tiếc chế độ cũ (non sông nhà Lê), nhưng nó
đã qua rồi, ta nên đoạn tuyệt thôi.
Bài thơ này, tóm lại, tôi nghĩ,
là một bài ông trình bày nỗi lòng của một trí thức đang có ý định qua sông : từ
một thể chế cũ, Triều Lê, bước sang phục vụ một thể chế mới, Triều Nguyễn (Gia
Long). Giữa 2 thể chế đó là Triều đại Tây Sơn của 15 năm ông phải chịu đựng mà
ông tóm lược trong 2 cặp đối. Ở Triều đại đó, ông chỉ là người khách lạ trên chính
quê hương của mình, ông đã sớm bạc đầu vì khổ cực, ông phải sống im ắng như con
chim hồng lìa bể khơi, không còn đất vùng vẫy.
Danh Hữu
(Paris, 19 août 2017)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét