Đoàn Dự ghi
chép
Rốt cuộc, mọi người đều thấy đời mình chỉ là một cuộc chơi
Nhạc sĩ Phạm Duy
THƯA QUÝ BẠN, cổ nhân có câu: “Nhân
tình như chỉ, trương trương bạch. Thế sự như kỳ, cục cục tân” – (Nhân tình như giấy, mỗi trang đều trắng. Chuyện đời như cờ, mỗi ván đều mới). Trước
đây tôi đã trình bầy hầu quý bạn đời sống như một cuộc chơi của vị học
giả kiêm nhà “cổ ngoạn” – người chơi đồ cổ – nổi tiếng Vương Hồng Sển.
Nay, tôi xin trình bầy tiếp chuyện sau khi “cuộc chơi” của cụ đã tàn thì
con cháu cụ ra sao. Sự thực, ngay người con
trai duy nhất của cụ – anh Vương Hồng Bảo – đời sống của anh cũng giống
như một cuộc chơi vậy thôi và anh đã chết trong tù. Trước khi mời quý
bạn coi chuyện con cháu cụ Vương hiện nay, tôi xin thuật lại các chuyện
về cụ để quý bạn hiểu rõ…
- Thân thế, tình yêu và sự nghiệp của cụ Vương Hồng Sển
Cụ Vương Hồng Sển là người mê đồ cổ. Nhưng mê đến nỗi hai lần bị vợ bỏ và tự mình viết cuốn “Hơn
nửa đời hư” hết sức thành thật để kể lại chuyện “hư” do tính đam mê đó thì thật hết mức!
Trước
đây, nghe nói về những cổ vật và các cuốn sách không ai có nổi của
Vương lão gia, nhiều người tự hỏi rằng ông
lấy tiền đâu mà mua được như vậy? Sau này, đọc sách do ông tự thuật,
người ta mới hiểu thì ra trời sinh ra ông có những đam mê thì cũng sinh
ra ông có những gặp gỡ khiến ông “nặng túi”, dư sức mua các báu vật. Ví
dụ đang không lấy gì làm giàu có lắm, cưới
vợ xong, gia đình bên vợ cho vợ chồng ông số tiền hồi môn tới 600 đồng –
một con số khủng khiếp lúc bấy giờ – cộng với một ngôi nhà ở ngoài mặt
đường La Grandière (đường Gia Long cũ, bây giờ là Lý Tự Trọng, quận 1),
trị giá tới 1.000 đồng, đâu phải chuyện
nhỏ? Thế rồi, lần cưới vợ thứ hai, đang làm nhân viên tại Trường Máy
(nay là trường Kỹ thuật Cao Thắng) ở Sài Gòn, ông đổi về làm nhân viên
kế toán tại tòa bố (tòa tỉnh trưởng) Sa Đéc, hai vợ chồng phải ở nhà
thuê. Tự dưng bà cô vợ là một trong số 4 người
giàu có nhứt miền Tây lúc ấy, cho hai vợ chồng ông 240 mẫu ruộng ở Hoà
Tú, Sóc Trăng, cộng với một hộp gồm 320 hột xoàn, ấy là chưa kể các hộp
khác đựng vòng vàng, xuyến vàng, cà rá, bông tai…, ông “nghèo” sao được?
Lúc còn sinh tiền, ngoài 80 tuổi Vương lão gia vẫn tiếp tục là người bộc trực, vui tính và… thích tiếu lâm. Quý bạn
thấy trong sách của ông có những câu “tả chân” như thế này thì cũng… hết chỗ nói luôn:
“Hai quả núi vàng pha núm tuyết
Một khe hang ngọc nức mùi hương”
Ông kể trong cuốn Một
nửa đời hư:
“Tôi sanh năm Nhâm Dần (1902), ngày 27 tháng 9 ta. Nhà cha tôi ở châu thành Sóc Trăng nhưng khi sanh, mẹ tôi về quê,
sanh tôi tại làng Xài Cá Nả (bây giờ là làng Đại Tâm).
Học giả Vương Hồng Sển được người đời tôn vinh là nhà khảo cổ tầm cỡ thế giới. Nhưng về tình duyên ông thiếu may mắn:
Hai lần đổ vỡ. Điều này chúng ta có thể thấy được qua những trang sách hóm hỉnh, sâu sắc trong tập hồi ký Hơn nửa đời hư của
ông. Ông viết rất nôm na, chân thật, không chút giấu diếm.
Người
vợ đầu tiên của ông tên Trần Thị Thố. Lúc bấy giờ, ông đã đậu bằng
Brevet Elémentaire (ngoài Bắc thường gọi
là bằng Diplôme) tại trường Chasseloup Laubat (nay là trường Lê Qúy
Đôn) ngày 18. 6.1923. Sau đó ông thi đậu cuộc thi tuyển chọn người làm
thư ký cho nhà nước và được bổ nhiệm công tác tại “Trường Máy” trên
đường Đỗ Hữu Vị (nay là đường Huỳnh Thúc Kháng)
Sài Gòn.
Sau khi làm việc được một năm thì ông cưới vợ. Đám cưới diễn ra vào ngày 16. 6.1924 theo đủ lễ, có coi tuổi, coi ngày
chu đáo. Nàng sinh năm 1910, lúc ấy mới 14 tuổi. Còn chàng, sinh năm 1902, lúc ấy 22 tuổi, quá đẹp! Thế nhưng, chỉ chín tháng sau hai
vợ chồng trẻ đã đưa nhau ra tòa và ngày 12.4.1926 tòa cho ly dị dù “chưa nát chiếc chiếu tân hôn”.
Lỗi
thuộc về ai? Sau này, ông viết: “Lỗi tại người đàn bà theo mặt luật
pháp, mà đúng ra lỗi về người đàn ông ham
mua sách và mê đọc sách đến quên người vợ trẻ nằm kề bên. Tiền hồ đám
cưới được 600 bạc là một số tiền kếch xù, lại tiền ông nhạc cung cấp mỗi
tháng không phải là nhỏ, cộng với sáu bảy chục bạc tiền lương, chỉ vèo
trong mấy tháng, kết quả tủ sách không còn
chỗ để, mà ái tình đã nhẹ bước ra đi. Ai chịu nổi với thằng chồng như
vậy?
Sau
khi ly dị, ông còn lại căn nhà ở số 214 đường La Grandière (trước là
Gia Long, nay Lý Tự Trọng, Sài Gòn), đem
bán được 1,000 bạc. Không dám giữ số tiền quá lớn này trong mình vì ông
biết tính mình quen tiêu xài lớn, sợ xài hết tiền, ông đem gửi một
người bạn thân tên Nguyễn Văn Xuân. Không ngờ “đem trứng gửi cho ác”,
đến lúc cần lấy lại thì bạn đã đánh bạc thua sạch!
Chừng
hơn năm sau, tiếng sét ái tình lại đến với ông. Cô tư Dương Thị Tuyết,
cháu bà Phủ An (đây là “Phủ” hàm, trong
Nam không có chức quan phủ, quan huyện như ngoài Bắc). Đám cưới diễn ra
vào ngày 9.11.1927. Nàng sinh năm 1911, lúc ấy 16 tuổi. Còn chàng, 23
tuổi. Hôm đám hỏi, ông bà nhạc (tên là ông Kính, trong lời tự thuật
không hiểu sao ông thường gọi là “thầy Kính”)
chê lên chê xuống là không có kim cương hột xoàn mà chỉ có mười
lượng vàng đôi (vàng đã đánh thành đồ gia bảo, từng đôi một như cặp
xuyến, cặp kiềng, theo số chẵn để tiện khi cưới hỏi). Nhưng đối với ông,
đây là vốn liếng của mẹ ông khi chết để lại cho
ông nên nó vô giá, bên vợ đâu có hiểu điều đó, họ cứ chê trách.
Hôm
ấy đám cưới thật linh đình, thân phụ của nghệ sĩ Hữu Phước (ông nội ca
sĩ Hương Lan) là ông Bảy Cảnh làm phụ rể.
Không biết rể phụ bưng thế nào mà cái chạo rượu lễ khi rót ra không còn
một giọt! Điềm gở chăng? Lại nữa, căn phòng tân hôn đêm đó được cha mẹ
cô dâu “mượn tạm” làm chỗ đánh bạc khiến hai người không có chỗ ngủ!
Cưới
vợ xong, ông ở chung với gia đình vợ tại ngôi nhà số 260 đường Richaud
(trước 75 là đường Phan Đình Phùng, Đa
Kao, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu, Q.1). Thời gian này họ sống với
nhau cực kỳ hạnh phúc và ăn xài “như nước vỡ bờ”. Sau đó, họ dọn về nhà
số 69 đường Taberd (nay là đường Nguyễn Du).
“Vợ
tôi mới 16 tuổi, không biết lo gì hết. Lương tôi tám chục đồng, vừa
bằng với lương thông phán của ông già vợ nhưng
tôi dạy thêm Việt ngữ cho bốn anh Tây, mỗi anh hai chục, mỗi tháng kiếm
thêm được tám chục nữa, vậy mà tháng nào cũng sạch bách, nhiều bữa ngồi
sụ một đống, mẹ vợ đi đánh bài tứ sắc về phải cho 5 đồng, hai đứa dẫn
nhau đi ăn cơm nhà hàng Yeng Yeng chớ không
bao giờ ăn cơm nhà…”.
Rồi mẹ vợ mất. Bản thân ông đã rời Trường Máy, đổi về tòa bố Sa Đéc. Vợ ở Sài Gòn, chồng ở Sa Đéc.
“Lúc
này thân tôi như chiếc thuyền bé gặp cảnh bão táp, tai họa dập dồn. Vì
không lo xa nên không dành dụm được xu
nào” . Vợ chồng ông bèn cùng dọn về Sa Đéc, ngụ tại nhà số 106 đường
Vĩnh Long, ít lâu sau lại dọn về nhà số 2 đường Vĩnh Phước – sát với dốc
cầu Sa Đéc. “Tại đây, cách xa gia đình nhà vợ, tình duyên của tôi và
Tuyết đằm thắm như hai con chim thoát khỏi ổ
mẹ, ríu rít trên cành, rất tự do, đói bụng mà vui, nghèo mà hạnh
phúc…”.
Nếu
cứ như thế mãi chắc họ sẽ không chia lìa nhau. Số là ngày 20 tháng 11
năm 1928, họ gặp cứu tinh là bà Phủ hàm
Lê Văn An, nghiệp chủ ở Sóc Trăng. Bà lên Sa Đéc dự tiệc cưới tại nhà
thầy Cai tổng Nguyễn Tấn Cao tự Keo. “Tôi và Tuyết cũng có mặt ở đó.
Tuyết kêu bà là bà nội nhưng sự thiệt là bà cô ruột (tức em ruột của ông
nội). Bà cháu nhận nhau, tôi còn nhớ lời bà
nói hôm ấy:
“Tao
nghĩ tội nghiệp cho con cháu nội của tao nay đã côi cút, mất mẹ. Chớ
nếu mẹ nó còn sống, dầu nó ngậm ngọc mà
nói tao cũng không màng. Thằng Tư (tức là tôi) mầy không biết chớ mẹ
nó lúc trước cùng với chồng nó là thằng Kính đi kiện bà đây đặng tranh
gia tài, bà còn tích giận. Nay thấy vợ chồng bây nghèo túng bà động lòng
thương. Bây ráng ăn ở cho có hậu thì bà không
bỏ tụi bây đâu”.
Ba
năm sau, ngày 6 tháng 5 năm 1931, bà Phủ An qua đời. Trước khi mất, bà
để lại di chúc, cho vợ chồng ông Vương Hồng
Sển 220 hecta ruộng tốt trong làng Hoà Tú, 8.000 đồng tiền mặt và một
số tư trang gồm không biết bao nhiêu là kim cương hột xoàn, riêng một
hộp cũng đã có 320 hột, không kể bông tai, cà rá bằng vàng, nhiều không
tưởng tượng nổi…
“Nhưng
than ôi, cũng vì tiền quá nhiều mà nhơn tâm thay đổi. Sau 19 năm, từ
1927 đến 1946, vợ chồng đang ăn ở với
nhau như bát nước đầy bỗng Tư sanh tâm ôm cầm sang thuyền khác. Án ly
dị đề ngày 7 tháng 7 năm 1958. Thế là tan vỡ duyên nợ. Em bảo chia
ruộng, chia vàng bạc, chia kim cương hột xoàn, tôi bảo để cho em hưởng
trọn”.
“Em ôm mớ hột xoàn và các vòng vàng, xuyến vàng, cà rá, bỏ tôi bơ vơ một mình với mớ đồ cổ cùng các chén bát cũ, các
sách rách bìa xác xơ mà em cho là vô dụng cũng như chủ của nó…”.
Sau
đó ông ở với người khác, không có hôn thú, không có đám cưới đám hỏi
nhưng lại bền chặt và hạnh phúc cho đến cuối
đời. Người đó chính là bà Nguyễn Kim Chung, một nghệ sĩ lừng lẫy danh
tiếng trên sân khấu miền Nam thuở trước với nghệ danh Bà Năm Sa Đéc.
Về cuối đời, học giả Vương Hồng Sển đã dành cho bà nhiều tình cảm trân trọng và đầy yêu dấu: “Người thứ ba nầy đã
khóc với tui biết bao nhiêu là nước mắt”. Và theo ông: “Một khi đã có con trai nối dõi, tờ hôn thú vẫn là thừa”.
Bà Năm Sa Đéc qua đời 29 năm sau, tức năm 1987. Còn ông mất sau đó mười
năm, tức
năm 1996, thọ 94 tuổi. Trước khi mất, ông lập di chúc tặng tòan bộ các
bảo vật, đồ cổ, sách ốc và cả ngôi nhà của ông cho nhà nước CSVN và các
thế hệ mai sau. Đây là một
kho tàng vô giá không ai có thể xác định rõ được giá trị của nó như thế
nào. Ví dụ chiếc giường của một vị quý phi triều Nguyễn; một bộ gồm đầy
đủ 211 số Nam Phong Tạp Chí mà theo ông cho biết, năm 1954, chỉ cần 60
số thôi ông cũng đã phải đổi cho một bà người
Bắc vừa di cư vào Nam một căn nhà lầu đủ cho gia đình bà ở. Rồi thủ bút
của học giả Petrus Trương Vĩnh Ký, thủ bút của học giả Huình Tịnh Của
với cuốn Quấc âm Tự vị in lần thứ nhất khi tiếng Việt hãy còn manh nha.
Rồi các lọ độc bình, các chóe cổ từ đời Tống,
đời Minh..vv.. Không vàng bạc nào có thể mua được. Chúng sẽ bị hao hụt
đi thôi.
Chúng
ta nên nhớ Thư viện Khoa học Xã Hội & Nhân Văn (ngày trước gọi là
Thư viện Gia Long, nằm trên đường Gia Long,
đối diện Bộ Quốc Phòng VNCH, khoảng giữa đường Tự Do nay là đường Đồng
Khởi và đường Pasteur) đã có từ thời Pháp thuộc, giá trị như thế, sang
trọng như thế, đã có biết bao nhiêu con người, bao nhiêu thế hệ thành
công trên đường học vấn từ thư viện này. Nhưng
nay, nếu bạn muốn mượn một cuốn sách, số hiệu trong thư mục thì có
nhưng sách thì không. Người ta đã lấy trộm hoặc bán trộm mất rồi.
Kho
tàng đồ cổ và các sách cổ quý còn hơn vàng của đại lão gia họ Vương rồi
cũng sẽ thế thôi, không thể hơn được,
đáng tiếc thay! Tại sao lại mất? Bởi vì các nhân viên thay nhau trực
hàng đêm. Đêm nay người này lấy trộm một hai món. Đêm mai người khác lấy
trộm một hai món. Vài ba năm kiểm tra lại một lần, đối chiếu với danh
sách thấy mất nhưng không biết ai lấy, chẳng
lẽ lại đuổi tất cả? Hơn nữa “cấp trên” đi kiểm tra cũng có trách nhiệm,
thôi thì im lặng là hơn!
Bà
Dương Thị Tuyết mất ngày 4-7-1992, thọ 81 tuổi. Bà Trần Thị Thố mất
ngày 18-1-1992, thọ 82 tuổi. Cả hai bà đều
không có con với ông. Riêng bà Năm Sa Đéc thì có, cả con trai lẫn con
gái, người con trai tên Vương Hồng Bảo nhưng tài năng kém xa ông, không
nối được nghiệp của cha.
Chuyện gia đình tang thương của cụ Vương Hồng Sển
“Tôi
lấy anh Vương Hồng Bảo năm 1979, có ba đứa con. Chúng là tài sản lớn
nhất của tôi”. Chị Liên con dâu cụ
Vương Hồng Sển mở đầu câu chuyện kể về đời làm dâu gian truân của mình
như thế. Ngoảnh lại, thấy bố chồng, chồng mình đều đã ở nơi chín suối.
Cuộc đời vàng son như trong Hồng Lâu Mộng…”.
Ngày xưa lá ngọc cành vàng
Vương
Hồng Bảo, chồng chị Liên, mất năm 1998 trong tù. Các con chị Liên đã
lớn. Chị nói: “Ngày trước tôi rất sợ chết
vì lo các con mồ côi cha, mồ côi mẹ. Nay các con tôi đều đã trưởng
thành, tôi nhắm mắt cũng được rồi… Tiếng là làm dâu cụ Vương Hồng Sển,
danh gia vọng tộc mà tôi chẳng nhận được một cái gì. Hộ khẩu tôi cũng
chẳng có ở nhà này. Nhưng thực lòng tôi không tiếc”.
Chị
Võ Ngọc Liên (sinh năm 1951) và anh Vương Hồng Bảo cùng học trường Tây,
quen nhau từ nhỏ. Lớn lên, chị lập gia
đình với một bác sĩ người Pháp, có một đứa con, rồi ông bác sĩ mất. Còn
anh Bảo, chính chị đã làm mai mối anh Bảo cho người bạn gái gốc Ấn Độ
rất đẹp. Họ có hai con, mất một con. Năm 1978, người vợ Ấn này đưa đứa
con gái đi khỏi Việt Nam. Chị Liên và anh Bảo,
người góa chồng, người không có vợ, về sống với nhau (năm 1979).
Khi
đó họ cùng làm trong một hãng phim của nhà nước CSVN. Anh làm kế toán,
chị làm chuyên viên hóa trang. Chị về làm
dâu cụ Vương Hồng Sển, bước vào tòa nhà cổ lừng lẫy danh tiếng tại
đường Nguyễn Thiện Thuật Gia Định với hàng ngàn món đồ cổ quý giá. Nhưng
chị không có hộ khẩu trong gia đình dù đã sinh ba đứa cháu nội cho cụ
Vương.
Chị
nhớ lại: “Lúc đó cây cối um tùm. Nhà cửa thâm u. Khi tôi sanh cháu nội
cho ông, ông nói với má tôi: “Con Liên
nó trúng số độc đắc”. Có lần, ông chỉ những món đồ cổ quý giá cho tôi
coi. Ông nói: “Con ơi, món này 30 cây, món kia 200 cây…”. Ông sợ rằng
khi ông chết, tôi không biết giá trị của chúng, sẽ làm tiêu tán tài sản
nên dặn dò như vậy”.
Chị Liên kể tiếp: “Cụ Vương có ba đời vợ. Nửa đời mới có được một con trai là anh Bảo trong khi người Hoa rất quý
con trai. Bây giờ tôi sanh cháu nội, cụ mừng lạ thường”.
Làm
dâu nhà cụ Vương Hồng Sển – một nhà sử học danh tiếng, một nhà văn hóa
đã viết trên 20 cuốn sách, một người chơi
đồ cổ nổi tiếng hạng nhất Sài Gòn, một biểu tượng của văn hóa miền Nam –
quả không phải chuyện dễ dàng. Chị cho biết, khi có khách đến chơi,
khách cỡ nào thì đứng ở ngoài cửa nói chuyện, khách cỡ nào thì được mời
vào bàn trà ở phía bên trong, khách cỡ nào
được mời đến cái bàn ở bên trong nữa, phía trước bàn thờ, khách cỡ nào
thì được mời vô phòng khách…, tất cả những việc đó cụ Vương đã quy định
rõ ràng, mọi người phải theo.
“Tôi là một chứng nhân sống trong ngôi nhà danh tiếng ấy – chị Liên nói – Ông cụ sống rất giản dị. Mẹ chồng tôi là
bà Năm Sa Đéc cũng góp phần gây dựng nên sự nghiệp, nhưng sự thực bà cụ chưa được hưởng gì”.
Tiếng là làm dâu nhưng chị Liên chẳng có gì: “Cái xe hơi riêng tôi cũng không có. Đi học lái xe, ông cụ sợ gây tai
nạn. Học bơi thì cụ sợ tôi chết đuối. Học đàn thì cụ bảo: Mày đàn như đứa mù vậy”.
Chị
làm dâu 10 năm (1979-1989), lương chuyên viên hóa trang ở hãng phim
được bỏ vào túi xài riêng. “Mỗi tháng ông
cụ phát tiền chợ, tiền mua 1 tạ gạo, tiền đóng học phí của ba cháu nội,
tiền đổ rác, tiền công người giúp việc, tiền lương người quản gia, tiền
bà cụ ăn sáng, tiền cho hai vợ chồng tôi ăn sáng…, tất cả mọi thứ tiền
đều do cụ đích thân phân phát”.
“Vì
cuộc sống quá an bình, chẳng phải lo nghĩ gì nên tôi không hề giành
giật với ai. Khi chồng tôi có nhân tình, tôi
bèn bỏ về nhà cha mẹ ở gần chợ Bến Thành”. Chị ra đi, buồn bã lắm, để
lại ba đứa con ở ngôi nhà cổ. Chị bảo chồng: “Giữa hai người đàn bà anh
phải chọn một. Có họ thì không có tôi, có tôi thì không có họ”. Nhưng
anh không thể “chọn” được bởi vì còn vướng mắc
tiền bạc rất lớn với người đó.
Chuyện nợ nần
Khi
chị Liên và anh Vương Hồng Bảo còn làm trong hãng phim, cuộc sống rất
yên bình. Rồi hãng phim giải thể, anh Bảo
xin vào làm trong Công ty Vàng bạc & Đá quý. Vốn là một nhân viên
kế toán, anh thấy công ty lời rất lớn, nhất là lại kết hợp việc làm ăn
với bên Trung Quốc thì lời không biết bao nhiêu mà kể. Anh bèn bỏ Công
ty Vàng bạc & Đá quý, ra mở tiệm vàng riêng và thường
sang Trung Quốc giao dịch. Anh Bảo – kể cả chị Liên – học chương trình
Pháp từ nhỏ nên rất giỏi tiếng Pháp và tiếng quan thoại. Đó là những
ngày tháng vô cùng quan trọng đã quyết định cuộc đời của vợ chồng anh
Bảo. Anh là “tay mơ”, không thể chống chọi với
những tay sừng sỏ ở bên Trung Quốc, nên sau một thời gian buôn bán, anh
bị lừa gần hết tiền.
Chị Liên kể: “Chồng tôi đem 300 cây vàng đi mở cửa tiệm và buôn bán vàng bạc & đá quý với bên Trung Quốc. Ít lâu sau,
chỉ còn lại khoảng 20 cây. Ảnh bảo: “Em sang Trung Quốc đòi tiền giùm anh đi”. Tôi nói: “Em là phụ nữ, có biết gì đâu mà đòi. Người ta đã cố tình lừa đảo, em qua bển chúng giết em, em sợ lắm”. Vậy là thôi, ảnh
cũng không đi, vậy là mất tiêu gần 300 cây vàng lúc đó cực lớn”.
Những
thất bại trong chuyện làm ăn khiến anh Bảo rất buồn. Anh tiếc của nên
kết hợp với cô nhân tình tên là Phạm Thị
Hồng, một người rất ghê gớm, tìm cách lừa đảo nhiều người khác để… làm
giàu và anh Bảo lấy lại của cải đã bị bên Trung Quốc lừa gạt.
Chị
Liên kể: “Tôi mất tất cả. Chồng và cô Hồng nhân tình của chồng vào tù
với án chung thân. Anh chết trong tù (1998).
Có người nói anh buồn quá nên tự tử mà chết. Ba chồng tôi cũng mất
trước đó 2 năm (1996). Gia đình bỗng chốc tiêu tan. Trước khi mất, phần
vì giận anh Bảo làm mất thanh danh của mình, phần vì sợ không ai cáng
đáng nổi cơ nghiệp nên cụ lập di chúc tặng ngôi
nhà cùng toàn bộ các đồ cổ có giá trị không biết bao nhiêu mà kể cho
nhà nước. Khi cụ mất là cán bộ văn hóa và công an đến kiểm kê ngay. Tôi
từ nhà ba má tôi ở gần chợ Bến Thành trở lại ngôi nhà này để chăm sóc ba
đứa con còn nhỏ dại, lần hồi kiếm sống, chạy
ăn từng bữa với khoản nợ nần không biết lấy gì mà trả theo lịnh của tòa
án do chồng tôi ở trong tù để lại cho gia đình. Giả thử nếu cụ còn sống
và không hiến toàn bộ cổ vật kể cả ngôi nhà cổ cho nhà nước, đem bán để
trả thì cũng đỡ hơn… ”.
Chuyện ngôi nhà cổ hiện nay
Chị Võ Ngọc Liên kể tiếp: “Giờ tôi thường đi nhà thờ mỗi ngày. Đứa con gái lớn của tôi cứ 5 giờ chiều là mở cửa hàng
bán ốc. Ban ngày, chúng tôi cho thuê mặt bằng để họ bán cơm bình dân, mỗi ngày thu 60 ngàn đồng cho mướn, lấy tiền đong gạo”.
Theo
di chúc của cụ Vương Hồng Sển, ngôi nhà cổ được hiến cho nhà nước làm
nơi trưng bày các cổ vật của cụ và lập
một cái quỹ văn hóa mang tên Vương Hồng Sển. Các cổ vật đã được đưa vào
Viện Bảo tàng cất giữ. Nhưng chuyện bàn giao ngôi nhà cho nhà nước để
tôn tạo làm di tích thì không hề đơn giản.
Chị Liên xót xa: “Căn nhà này danh tiếng bao nhiêu thì càng đau khổ bấy nhiêu. Phải chi cụ có một ngôi nhà bình thường
không chừng lại sướng” .
Ba cháu nội cụ Vương Hồng Sển, con của chị Liên, cháu lớn nhất tên Vương Hồng Liên Hương (sinh năm 1983), ở nhà bán
ốc. Hai em trai là Vương Hồng Bảo Thành, Vương Hồng Bảo Minh đang đi làm ở các công ty với đồng lương ít ỏi.
Việc giải quyết nhà cửa cho con cháu của cụ Vương Hồng Sển vẫn chưa đến đâu. Các cơ quan chức năng muốn đền bù, đưa
gia đình ra khỏi di tích để tu sửa, tôn tạo. Nhưng qua thời gian dài, chưa tìm được phương cách nào.
Ngôi nhà cổ xuống cấp, hư hại nghiêm trọng, có thể sập bất cứ lúc nào. Nhiều người chung sống trong căn nhà, “Khi
mưa, trong nhà dột chẳng kém ngoài trời”. Phần nhà cơi nới ra cũng hư hỏng nhiều.
Vương
Hồng Liên Hương nói với các phóng viên: “Chúng tôi muốn bình yên. Tôi
muốn sống ở đây. Giờ biết sống nơi nào.
Các em của tôi cũng đã lớn.Tôi muốn yên tâm bán ốc để sống. Tôi cũng đã
ngoài ba mươi tuổi rồi, có chồng, có con rồi. Nhà này giờ không còn gì
hết, chỉ còn cái xác thôi, mà cũng không được xây dựng, sửa chữa gì cả”.
Ngôi nhà cổ đã được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố từ năm 2003. Đến giờ, trông nó chẳng khác
gì một phế tích mà các con cháu sinh sống trong đó đang chật vật với nắng mưa.
Anh
Nam, Phòng Di sản văn hóa, Sở VHTTDL TPHCM cho biết: “Thành phố đã theo
di chúc của cụ Vương Hồng Sển, xác lập
quyền sở hữu nhà nước đối với di tích, nhưng chưa thực hiện được việc
quản lý vì người nhà của cụ vẫn còn sống ở đó”. Anh cho biết: “Nhiều lần
nhà nước đã cấp nhà cho chị Liên Hương và các em, nhưng gia đình chưa
đồng ý, kể cả cấp nhà mặt tiền ở đường Vạn
Kiếp với giá 8 tỷ đồng”.
Theo bản án tuyên với Vương Hồng Bảo trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân, tòa yêu cầu bồi thường cho những
người bị hại là 5 tỷ 350 triệu đồng; 101, 5 lượng vàng và 46.700 đô la Mỹ (thời điểm trước năm 1996).
Anh
Nam cho biết: “Năm 2005 chị Vương Hồng Liên Hương đã khởi kiện, đòi
thành phố chia di sản do quyền thừa kế của
chị và các em. Nhưng năm 2010 tòa đã bác yêu cầu của chị Hương. Chúng
tôi phải chờ phúc thẩm rồi mới thực hiện dự án tu bổ tôn tạo di tích
được”.
Chị Liên nói: “Đầu óc tôi rối bung như mớ bòng bong. Chúng tôi muốn có đời sống ổn định, ví dụ mở một trung tâm ngoại
ngữ mang tên Vương Hồng Sển chẳng hạn. Bán ốc hoài thế này cực cho các cháu quá!”.
Đoàn Dự
(V.Nga chuyển)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét