Người ta thường cho thầy là một vị Tulku, chỉ cho những vị đã từng tu
tập từ đời trước và có nguyện trở lại tái sanh trong cõi người. Do sự
kính mến, ngoài cái pháp danh của thày là Neten, họ thường kèm theo chữ
“Rinpoche” (có nghĩa là cao quý). Neten có phong tư rất hiền hòa và từ
bi, thày có nhiều Phật tử, và những buổi lễ lớn thày ban thường có rất
nhiều tín chúng tới tham dự.
Năm lên bảy. Một vị sư già đi ngang và quả quyết Neten là một vị Lama đã
từng tu tập nhiều kiếp, nay có nguyện tái sinh trở về cõi người này. Sư
còn bảo, trong tương lai, nếu Neten chọn đi trên con đường đời sẽ là
một người rất thành công, còn nếu đi theo con đường tu hành thì sẽ trở
thành một vị đại đạo sư nổi tiếng. Cha mẹ Neten rất hoan hỷ khi nghe tin
này, lập tức họ đưa Neten đến một tu viện lớn nổi tiếng của người Tây
Tạng ở Ấn và xin cho Neten được xuống tóc, quy y. Neten nhớ rõ lòng mình
lúc ấy. Thật bồi hồi, sung sướng và xúc động tới độ không thể cầm được
nước mắt.
Quả nhiên, thấy rất thông minh, tựa như người đã từng học qua, nay chỉ
ôn lại mà thôi. Dụ như một đoản kinh rất khó nhớ, đối với các vị tu sĩ
khác cần phải một thời gian dài mới có thể lãnh hội được thì đối với
Neten, chỉ khoảng vài ngày thày đã hiểu cặn kẽ và thuộc lòng. Vị bổn sư
của thày rất hài lòng về việc đó, càng quý mến và kỳ vọng ở Neten nhiều
hơn nữa.
Năm mười bốn tuổi, Neten thọ giới tỳ kheo. Năm hai mươi hai tuổi, thày
xong bằng tiến sĩ Phật học (sau khi đã trải qua tất cả những sự thử
thách và tranh luận). Thày được hội kiến với đức Dala Lama nhiều lần.
Năm ba mươi tuổi, thày bắt đầu đi khắp nơi thuyết pháp... Danh thày nổi
như cồn, tín chúng còn gọi thày bằng một cái tên Lama thân mến...
Dòng đời cứ xuôi chảy...
Một hôm, thày bổn sư muốn ủy nhiệm Neten đến trụ trì một ngôi chùa mới
xây ở tận một tiểu bang xa xôi bên nước Mỹ. Tâm thày dường như không
vui. Có lẽ thày không muốn xa vị bổn sư mình. Ngoài lý do đó, hình như
còn một lý do nào mà thày chưa biết rõ, chỉ thấy tâm xao động, mà sự sao
động đó thày không sao dằn được. Chẳng biết điều lành hay dữ. Tối đó,
thày ngồi nhập định, xem xét tìm hiểu nguyên nhân. Thày chỉ thấy một đám
mây đen lởn vởn trên bầu trời. Nó mờ nhòa, không rõ. Chỉ biết sẽ có
điềm họa sắp đến, mà chẳng biết đó là điềm gì. Định bụng, sáng ra thưa
với thày bổn sư xin được ở lại học tiếp và xin ngài ủy nhiệm một vị
khác. Nhưng, ngẫm nghĩ, nếu đó là nghiệp quả phải trả, thì cũng nên dứt
khoát trả hết trong kiếp này... Vì ý nghĩ đó. Thày quyết định tuân hành
bổn sư mình..
**
Phái đoàn đi đón Neten Rinpoche ngoài phi trường gồm năm người. Ba nam,
hai nữ. Họ đứng thành hàng dọc dâng tấm khăn trắng (một truyền thống của
Tây Tạng khi gặp một vị Lama đạo hạnh). Thày nhận khăn rồi lần lượt
quàng lại lên cổ để ban phước lành cho người dâng khăn. Tới người cuối
cùng là một nữ nhân. Dù không nhìn rõ mặt, vì nàng dâng tấm khăn lên
ngang mày. Thày chỉ nhìn thấy đôi bàn tay trắng mịn với những ngón thon
dài, nhưng thày cũng nhận ngay rằng, đây chính là điềm họa cho mình.
Thày hơi khựng lại một thoáng. Nhưng, tâm trở lại bình tĩnh, thày khẽ
nhận khăn rồi choàng lại lên cổ nàng. Lập tức, nàng chắp hai bàn tay vào
nhau, khuôn mặt nhìn xuống, lưng hơi khom lại tỏ một thái độ cung kính.
Thấp thoáng, thầy thấy một khuôn mặt son trẻ, với đôi mắt đen nhánh như
mắt con chim câu...
Nàng khá đẹp. Nét đẹp dịu dàng của dân gốc Á. Mái tóc dài, mướt như một
dòng suối. Trông nàng có một nét rất quen thuộc nào đó, nhưng tuyệt
nhiên thày không nhận ra được mình đã gặp nàng ở nơi chốn nào. Năm người
đi đón thầy đều là người Việt. Họ vừa líu ríu theo chân thày vừa kể cho
thày nghe những sinh hoạt ở Mỹ. Ông Đoàn, người trong ban chấp hành của
chùa, tường trình ngay:
- Thưa Neten Rinpoche, vì còn một vài trục trặc về giấy tờ, hiện tại
chùa chưa thể xin được để thầy có thể thành thường trú dân tại đây.
Nhưng chúng con xin được visa, thày có thể ở tại Mỹ sáu tháng. Trong
khoảng thời gian này, chúng con sẽ cố gắng xin thẻ xanh cho thầy.
- Được. Chuyện ở lại còn tùy có đủ nhân duyên không. Tôi hy vọng trong thời gian ở đây. Mọi sự sẽ tốt đẹp...
Con đường từ phi trường về chùa cũng khá xa, mọi người nói chuyện ríu
rít. Nhưng nàng chỉ dõi mắt ra ngoài cửa kính xe, nhìn dòng xe cộ chảy
ngược xuôi, tuyệt nhiên nàng chẳng nói lên lời nào. Hình như nàng cũng
chẳng chú ý gì tới vị thầy cho lắm. Ông ta trông còn quá trẻ - nàng nghĩ
- chẳng biết sự tu chứng của ông tới đâu.....
Những tuần lễ kế tiếp, Neten Rinpoche ban một loạt những buổi lễ quán
đảnh. Tín chúng đi dự rất đông. Vì người thông dịch từ Anh ngữ sang Việt
ngữ đi xa, nên tình cờ nàng lại được bầu làm thông dịch viên tạm thời
trong khi chờ đợi. Nàng rất sung sướng vì được lựa chọn, đồng thời thật
hãnh diện, vì từ hồi nào tới giờ, nàng chưa bao giờ làm được một việc gì
hữu ích cho ai. Nay, tự dưng nàng lại được đề cử và nhất là được thân
cận với một vị đại đạo sư đầy đủ phẩm hạnh, chẳng ít nhiều gì nàng cũng
cảm thấy mình rất quan trọng....
Trong việc thông dịch, thầy dành rất nhiều thời gian để giải thích thêm
những danh từ Phật học nàng chưa hiểu rõ, nên nàng thường dành một ít
giờ trước buổi lễ, hay những buổi giảng lên gặp riêng thầy, tóm tắt ghi
chép những gì thầy muốn giảng. Tuy chưa làm thông dịch viên bao giờ, đôi
khi gặp những danh từ chuyên môn làm nàng lúng túng, nhưng vì có được
một kiến thức rất khá về Đại thừa, và nhờ sự kiên nhẫn của Neten
Rinpoche, cộng với lòng mong học hỏi, trí thông minh, chịu khó của nàng
nên cũng hiểu được ít nhiều những gì thầy muốn nói.
Tình thân giữa Thầy, trò ngày càng đậm. Khác với ý niệm đầu tiên nàng
gặp Neten Rinpoche tại phi trường. Ngược lại, nàng nhận ra rằng, cái ông
thầy này thật đáng nể. Ông có thể đọc suốt được tư tưởng của người đối
diện. Hơn thế nữa, hình như ông có thể nhìn thấy được một vài điều của
quá khứ và tương lai. Nhưng chẳng bao giờ ông nói, các nhóm đệ tử biết
được đều do sự tình cờ rồi họ kháo nhau thêm, từ một thành mười, từ mười
thành trăm, tô điểm vị thầy mình thêm huyền hoặc... Nàng bắt đầu tâm
phục, khẩu phục vị sư trẻ này. Lối hành sử của nàng cũng tỏ vẻ tôn kính
và yêu mến thày hơn.
Một buổi sáng. Trong sân chùa ngập nắng, thày Neten thấy nàng mặc chiếc
áo dài Á đông bước vào cổng chùa, khuôn mặt rạng rỡ ... Nhìn thoáng,
thầy có cảm tưởng nàng chính là vạt nắng đầu ngày, thày thấy lòng rung
động, bàng hoàng, cảm nhận pháp giới này không phải một, cũng không phải
khác, nó thật trập trùng biến hiện. Có phải chăng, người thiếu nữ kia
đang "biến" thành vạt nắng hòa nhập với bản thể nhất như của vạn pháp?
Thầy nghiêng tâm nghe lòng mình rung động, rồi với sự phản xạ máy móc
của nghiệp dư còn đọng lại trong tâm, thày vội vã bước ra sân "đón" lấy
vạt nắng ấy. Cả hai nhìn nhau. Kỳ diệu thầy, thầy có cảm giác mình cũng
biến thành ánh nắng chan hòa, hợp với vạt nắng vừa xuất hiện thành nhất
thể như nước hòa với sữa. Trong phút giây mầu nhiệm ấy, ngôn ngữ quả là
"bất khả ngôn thuyết"...
Hình như người nữ cũng cùng trong một tâm trạng ngây ngất ấy. Nàng thốt lên với một giọng tràn đầy xúc động:
- Thầy ơi........
Nàng loạng choạng muốn té quỵ, thân người mảnh mai như muốn đổ ập về
phía Neten. Bằng một phản xạ tự nhiên, máy móc, thày Neten vội đưa tay
ra đỡ. Cùng lúc thầy cũng đủ tỉnh thức để lùi lại một vài bước, tránh
cho toàn thân nàng dựa hẳn vào mình, giọng thầy lấy lại bình tĩnh, hỏi
khẽ:
- Chị có sao không?
Thiếu nữ ấp úng:
- Không...không....!! Bỗng dưng..., con chỉ.... thấy... một niềm... cảm động tới muốn....bật khóc...
Vì sự tự trọng. Nàng cũng vội vã lùi lại làm cho thân mình bị mất thăng
bằng, lảo đảo. Hai bàn tay giơ ra gần chạm nhau lại bị vội vã rụt về. Cả
hai đứng nhìn nhau trong suốt chiều sâu của tâm thức. Hốt nhiên, Neten
Rinpoche đọc được trong ánh mắt nàng cả một khung trời vừa sụp đổ, trong
đó cưu mang một nỗi đau đớn tận cùng của sự thất vọng và yêu thương...
Sau buổi sáng hôm ấy, phong tư của Neten Rinpoche hình như không có gì
thay đổi. Nhưng nếu để ý kỹ, trong những hành động và cách cư xử - tuy
kín đáo - nhưng thầy cũng dành cho nàng một sự chăm lo đặc biệt hơn,
cùng với lòng bi mẫn như lúc nào cũng phủ chụp xuống nàng. Thày vẫn gặp
nàng trước những giờ thuyết pháp. Nhưng có lẽ thầy tránh không muốn gặp
riêng nàng ở bất cứ chỗ nào trong chùa. Còn riêng nàng, gần như một
huyền lực của nghiệp cũ đã chín mùi. Dần dà, nàng bỗng nàng nhận ra một
điều “khủng khiếp”, nàng không thể sống thiếu thày, nàng bỗng thấy mình
có một nhu cầu rất cần thiết mỗi ngày là phải được gặp thầy, phải nhìn
thầy, nghe thầy nói, ngắm thày cười, hay chẳng cần làm gì, chỉ cần phục
dưới chân thầy nghe thầy lần tràng hạt với những câu chú như một chuỗi
âm thanh dính liền nhau không dứt. Tệ hơn nữa, trong tận cùng sâu thẳm
của tâm thức, nàng khởi tâm muốn "chiếm hữu" thày cho riêng mình, cảm
giác chiếm hữu ấy mạnh tới độ nàng nàng cảm thấy rất khó chịu và ghen
tức khi thấy thày nói chuyện vui vẻ với những người khác. Những lúc như
vậy, tâm nàng thật bồn chồn, không yên và cực kỳ đau khổ. Biết điều đó
là xấu, nhưng nàng thực không thể cưỡng nổi sự ghen tuông. Một hôm lên
chùa sớm, định vào chào thầy thì nàng đã thấy có một chị Phật tử khác
đang trong phòng trò chuyện, chẳng biết chị nói chuyện gì mà nàng nghe
tiếng thầy cười hòa với tiếng cười ròn rã của chị. Buồn bã, nàng ra
ngoài sau hè ngồi khóc. Khóc chán, nàng lại thò đầu vô xem chị Phật tử
nói chuyện xong chưa. Vẫn thấy chị ngồi thụp dưới chân thày nói cười vui
vẻ. Nàng thấy tim mình quặn thắt lại. Nàng cũng thấy mình thật vô lý
khi cứ quẩn quanh trong một ngõ cụt như thế. Trong lúc này, hình như
những giáo lý của Phật mà nàng học hỏi từ bao lâu, cứ chảy trôi theo
dòng nước mắt, chẳng giúp được gì cho nàng mấy đỗi.....
Nhưng nỗi buồn không hẳn mãi mãi sẽ là. Nó chính là "mặt bên kia" của
niềm vui. Đôi khi nàng được thày cho tham gia vào công việc của chùa,
như việc tô những bức tượng Phật. Thật lạ, chẳng hiểu những tượng Phật
đó ở đâu ra mà đầy cả bàn. Mỗi bức cao khoảng một tấc, đủ các vị Phật
với những thế ngồi khác nhau. Nàng ngồi sà xuống và hỏi thầy với giọng
đầy khích động và ngạc nhiên:
- Ôi chao.... Tượng Phật ở đâu nhiều thế. Cho con tô với nhé?
Vị thầy ngước nhìn người thiếu nữ đọc được tất cả sự khích động trên đôi mắt ngây thơ của nàng, thày cười:
- Được! Nhưng chị tô có khéo không? Tô tượng cũng là một hình thức thiền
định và quán tưởng. Lại nữa, có một vài chỗ phải rất cẩn thận, không
được tô lem nhem, nhất là điểm nhãn Phật thì lại càng phải khéo léo lắm!
Sợ thay đổi ý. Nàng nói ngay:
- Con làm được mà!
Nàng sung sướng vô cùng khi được ngồi bên thầy như thế. Ban đầu thầy cho
nàng tô những phần dễ, thấy nàng tô khéo, thày cho tô phần tóc (một
chút xíu phần trên trán, nơi đó nếu không khéo sẽ bị lem qua vương miện
trên đầu). Nàng thích nhất ngồi tô thân thể Phật một màu vàng ròng. Tô
lớp đầu không thấy vàng mấy, nhưng nếu kiên nhẫn tô lên từng lớp chồng
nhau, đợi lớp này khô, lại tô thêm lớp mới cho đến khi có một mầu vàng
óng đẹp như một khối vàng thật. Nàng thích tới độ mê mải làm mãi tới gần
bảy giờ tối mới chịu về. Trước khi về, nàng khoe với thày "công trình"
mình vừa làm cả ngày. Một tượng Phật Thích Ca, một tượng của ngài Quán
Âm. Cả hai tượng đều có một màu vàng óng trông rất đẹp mắt...
Niềm hạnh phúc của nàng bị cắt đứt khi người thông dịch viên cũ trở về.
Nàng không còn có cơ hội gần gụi thày nữa. Nàng nhớ thày, sự nhớ nhung
kỳ quặc đến độ nàng cảm thấy hổ thẹn và mặc cảm, nghĩ rằng, mình chính
là con ma nữ đến quấy rối người tu hành. Lòng nàng luôn luôn cảm thấy
đau khổ và buồn sầu. Đau khổ vì biết rằng, tình yêu (nếu có) của mình
chính là một tình yêu bệnh hoạn và mù quáng vì nó đã đặt không đúng chỗ.
Buồn sầu khi biết chắc rằng mình đã chẳng ít nhiều gì cũng đang tạo
những nghiệp xấu, ác... Vì sự mặc cảm ấy, nàng thường có thái độ tránh
né và không dám đến gần thầy nữa. Nhưng vì lòng nhung nhớ cứ dâng đầy,
nên chẳng bao giờ nàng bỏ một thời thuyết pháp nào cả.
***
Một buổi chiều, sự nhớ thương gần như không còn chịu đựng được nữa. Nàng
lang thang xuống phố, mua ba cành hoa Lilly trắng đem lên chùa dâng
thầy. Cảnh chùa vắng vẻ, nàng bước vào với nhịp tim đập thình thịch
trong lồng ngực. Nàng ôm chặt ba cành hoa trước ngực như một sự chở che,
ngăn cấm mình phạm tội. Các thầy nhỏ chắc đang ở sân sau chùa trồng
tỉa, chỉ còn lại Neten Rinpoche ngồi trong một phòng cạnh chánh điện
đang tô các tượng Phật. Nàng bước vào với một thái độ của một kẻ phạm
trọng tội, mặt người nữ tái xanh, rụt rè và lắp bắp:
- Con đem.... dâng thầy mấy... cành hoa.... Lilly... trắng...
Neten Rinpoche ngẩng lên, ánh mắt từ bi như thấy suốt được tâm tư nàng, thong thả đáp:
- Thật tuyệt diệu. Ta đang đợi chị đến... (Rồi ngắm nhìn ba đóa hoa
trắng nuốt, đôi mắt lung linh, hoan hỷ, thày tiếp). Mấy đóa hoa mới đẹp
làm sao!!. Chị hãy cắm vào bình dâng lên lễ Phật. Sau quay lại đây, ta
muốn cho chị coi cái này...
Thiếu nữ líu ríu làm theo như một mệnh lệnh. Cắm những cành hoa trắng
vào bình, xì xụp lạy trước những tượng Phật đang ngồi trên bệ thờ rất
trang nghiêm. Chẳng hiểu sao lúc đó nàng cảm thấy xúc động lạ kỳ và nước
mắt cứ tuôn như mưa....
Nàng phải đợi một lúc cho tâm lắng đọng mới dám bước qua phòng bên gặp
Neten. Thày nhìn nàng chăm chú. Như người đã biết rõ được vấn đề, nhưng
vẫn cứ hỏi:
- Chắc chị đang gặp chuyện... khó khăn?
Chỉ chờ có thế, nàng òa lên, nức nở:
- Phải. Xin thầy ban bình an cho con...
Vị thầy thở dài. Nhìn người nữ một đỗi rồi nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của nàng dịu dàng bảo:
- Có những điều ta cần phải nên buông bỏ thì sự khổ đau mới chấm dứt...
Vừa nói đến đó, Neten buông tay nàng, dùng cả hai bàn tay mình ôm lấy
khuôn mặt người nữ, (dưới dạng hình thức ban phép lành), rồi thày cúi
xuống, thấp dần... thấp dần... cho tới khi trán của Neten đụng lên trán
nàng....
Do sự gia trì của vị đạo sư. Mọi sự như được hiển bày trước mắt. Nàng
nhìn thấy rõ trong một kiếp quá khứ nào đó của chính nàng. Hình ảnh
người nữ đang đứng với chiếc áo cánh trắng mong manh. Trên tay cầm ba
cành hoa Lilly mầu trắng nuốt. Sau lưng nàng là một khung cửa chói lòa
ánh nắng với vườn hoa muôn sắc. Đối diện là chồng nàng, họ đang trao
nhau những ánh mắt thương yêu. Người nữ đặt ba cành hoa lên ngực người
nam nhìn chàng say đắm nói khẽ qua hơi thở:
- Anh ạ. Em nguyện sẽ đời đời kiếp kiếp được làm vợ anh và được hạnh phúc như thế này mãi mãi...
Đôi mắt người nữ ngước lên long lanh. Mùi hoa Lilly thơm ngát đâu đây...
*
Vị đạo sư buông tay, rời trán mình khỏi trán nữ nhân. Nàng xúc động tới
độ bật khóc. Nàng nhớ lại tất cả như chuyện mới xảy ra hôm qua. Tim nàng
run run như con chim non bị lạnh. Giọng đạo sư trầm trầm:
- Đã vài đời, vài kiếp, chúng ta từng là vợ chồng và rất sung sướng,
hạnh phúc, đã từng được làm thân người, thân chư thiên, nhẫn đến có được
những thân vi diệu trên từng trời Phạm Thiên và đã từng hưởng tất cả
những sung sướng của cõi nhân gian này... Dẫu vậy, chúng cũng chẳng đem
lại hữu ích gì mấy đỗi. Ngược lại, chúng ta cũng đã từng nhiều đời,
nhiều kiếp - do sự vô minh, tham ái - mà phải chịu mang thân ngạ quỷ,
súc sanh, nhẫn đến ở trong những địa ngục nóng, lạnh để phải chìm nổi
trong luân hồi và thọ nhận tất cả những khổ đau. Nay, cơ may trở lại
được thân người, tôi lại được gặp em, dẫu trong một hoàn cảnh hoàn toàn
đổi khác, nhưng đó cũng là cơ may cho chúng ta gỡ những nghiệp quả từ
kiếp trước. Sao em không nhân cơ hội có được thân người hiếm quý này tu
tập cầu giải thoát? Sao cứ phải cam chịu loanh quanh trong luân hồi tạo
thêm ác nghiệp? Hạnh Phúc ư? Thế nào là Hạnh Phúc? Nếu lấy cái Hạnh phúc
của trần gian này để làm niềm vui thì cái niềm vui ấy thật bọt bèo, dễ
vỡ....
Vị đạo sư đứng lên. Ông mở tung cánh cửa sổ trông ra vườn. Nắng vẫn còn
lung linh trên những đóa cúc vàng hắt lên những ánh sáng cuối cùng của
ngày tàn. Ánh sáng bên ngoài tràn vào căn phòng bắt đầu tối làm thành
một viền sáng quanh thân ông. Ông quay nhìn người thiếu nữ vẫn còn đầm
đìa nước mắt thong thả nói rõ từng tiếng:
- Phải. Em vẫn còn vướng với tôi một lời nguyện ước. Thảo nào lần đầu
tiên gặp em ở phi trường, tôi đã nhận ra được nét thân quen. Nhưng thực
tâm tôi không muốn đòi, bởi mọi sự đều đã thay đổi. Tôi đang đi trên con
đường tìm kiếm chân Hạnh Phúc cho mình và cho người. Trong tôi, vẫn có
tình yêu dành cho em, nhưng tình yêu tôi nay không còn ngừng trên một
đối tượng, mà là trên toàn thể pháp giới... Từ sau buổi sáng tôi đón em
như một "vạt nắng sân chùa", em luôn luôn hiện hữu trong tôi, là một
điểm sáng, một sự thanh khiết, cao quý nhất. Em đi cả vào trong những
buổi cầu nguyện của tôi. Tôi luôn nguyện em cũng sẽ đạt được chân Hạnh -
Phúc ấy. Muốn vậy, em nên xả bỏ tất cả. Có những điều ta cần phải nên
buông bỏ thì sự khổ đau mới thực sự chấm dứt...
Thiếu nữ òa khóc. Nàng nghe trong tim một sự rạn vỡ... Trong cơn đau đớn
tận cùng, nàng cảm nhận được tình yêu rộng lớn của vị đạo sư dành cho
mình. Nàng hiểu rất rõ rằng nàng không còn một một sự chọn lựa nào khác.
Người chồng năm xưa nay đã đổi hướng đi, không còn muốn đi chung với
nàng trên con đường xưa cũ, mà ở đó, Hạnh Phúc hay Đau Khổ đều tùy thuộc
vào sự vô thường, bèo bọt của kiếp người. Nay, nàng cũng phải thay đổi,
nàng phải đi tận cùng nỗi khổ đau để vươn lên, để có thể trở thành một
“dãi nắng thênh thang”. Nơi ấy, nàng sẽ gặp chàng ở đó...
Lời đính chính của Tác Giả Chiêu Hoàng
về bài viết Vạt Nắng Sân Chùa.
Kính thưa các vị đạo hữu,
Truyện Vạt Nắng Sân Chuà là một câu chuyện hư cấu với những nhân vật không có thật. Nội dung câu chuyện chỉ là để nói lên một “Tình Yêu vô nhiễm” của một vị đại đạo sư đã chứng đắc Bồ Đề Tâm và Trí Huệ Không Tánh, cùng sự thành công của Ông đã cảm hoá người đệ tử mình, vì còn rơirớt lại một ít nghiệp duyên nào đó từ những kiếp rất xa xưa, đã chuyển tình đời thành tình đạo cho cô.
Nhưng không ngờ là có sự trùng tên của một vị Đại Đạo Sư Tây Tạng nên tác giả đã thấy trên nhiều websites, đã có người tự ý đăng hình vị đại đạo Sư Neten Rinpoche lên. Điều đó làm cho nhiều người đọc có cảm giác đó chính là câu chuyện thật của Ngài và đó là một điều KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT.
Còn bản thân tác giả chưa từng gặp mặt hoặc được nghe giáo pháp từ vị đại đạo Sư Neten Rinpoche và cũng chưa từng biết gì về cuộc đời của Ngài cả, thì không lý gì những người khác lại tự ý đăng tải hình ảnh của Ngài mà không hề kiểm chứng lại với chính tác giả một cách nghiêm túc trước khi đăng như thế.
Xin yêu cầu tất cả các websites đã đăng Truyện Vạt Nắng Sân Chùa kèm theo với những hình của Ngài Neten Rinpoche thì xin lấy xuống để tránh khỏi đoạ ác đạo và để tránh cơ hội cho những người, đọc mà không hiểu ý và nhân đó xuyên tạc bài viết.
Lành lắm thay...
Kính
Chiêu Hoàng
(Từ Cảnh chuyển )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét