Lời người biên soạn:
Về Nguyễn Công Trứ có
rất nhiều giai th0oại. Trong số 81 câu chuyện vừa kịp sưu tầm trong dịp này,
chúng tôi xin chọn lọc biên soạn lại để đưa vào tập sách 36 giai thoại tiêu biểu,
với mong muốn dựng lên một chân dung Nguyễn Công Trứ qua cái nhìn “dân gian” -
từ góc độ khác với những lí giải, nghiên cứu hàn lâm - của hậu thế về con người
của cụ Thượng Uy Viễn.
Huyền
Li
***
1. NGÔNG NGAY TỪ LÚC CHÀO ĐỜI… CHO ĐẾN TẬN KHI CHẾT!
Ngày mồng Một tháng Mười một năm Mậu Tuất (1778), tại tư gia của viên quan Tri
huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, bà huyện họ Nguyễn, sau cuộc vượt cạn kinh hoàng đã
sinh hạ được một cậu con trai thân dài, trán rộng, mũi cao.
Các cụ xưa nói “Trai mồng một, gái ngày rằm” quả không sai - vừa mới lọt ra khỏi
lòng mẹ, cậu bé đã tỏ ngay sự ngông bướng của mình bằng cách không chịu mở mắt
nhòm và không thèm mở miệng khóc như những đứa trẻ sơ sinh khác. Người nhà và
hàng xóm đưa hết nồi đồng, mâm thau đến khua gõ liên hồi, cậu cũng điềm nhiên mặc!
Chỉ đến khi cả đám người lớn đã mỏi rã rời, xuôi tay lắc đầu thì cậu mới dõng dạc
cất tiếng khóc đầu tiên oang oang như tiếng chuông đồng!
Người cha của đứa bé mừng khôn xiết, vì ông vốn hiếm muộn, năm đó đã ngót nghét
lục tuần mới có được cậu con trai nối dõi(1). Là một nhà Nho hay chữ, nghĩ đây
cũng là một điềm triệu báo điều hỉ, ông bèn ra thư phòng lấy giấy bút đặt tên cho
con trai. Ông chọn cho cậu quý tử bướng bỉnh tên huý là Củng - theo chữ Nho có
nghĩa là bền chặt, vững vàng; còn tên chữ là Trứ - nghĩa là rõ ràng, nổi trội.
Cậu bé đó chính là Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư Nguyễn Công Trứ tương
lai, và cũng là nhà thơ trác việt kiêm tay chơi số một một thời. Cả cuộc đời của
cậu Củng - Trứ về sau quả đúng như những quan sát dân gian và ước vọng thầm kín
của người cha già - bền gan vững chí và lẫy lừng sáng tỏ!
Nhưng đó chỉ mới là cái ngông khởi đầu. Tới tận khi đón cái chết, Nguyễn Công
Trứ vẫn ngông.
Theo lời truyền, trước khi sang thế giới bên kia - chắc là cũng sẽ tiếp tục cái
cuộc chơi bất tuyệt - Cụ dặn con cháu không nên bày cuộc tang lễ để khỏi tốn
kém, làm khổ dân làng, mà cứ để Cụ nằm nguyên trên chõng như khi đang ngủ, thả
xuống huyệt là xong! Nhưng không biết là các con cháu có dám nghe theo lời Cụ
hay không? Xưa nay người đời sau vốn coi trọng cái “lễ” của mình hơn là hiểu và
tuân theo được cái lí, cái lòng giản dị và khoáng đạt, không chấp nê của những
bậc vĩ nhân vừa khuất.
Cụ mất, theo Niên biểu ghi là ngày 14 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1858), nhưng chính
trong Gia phả lại chép là ngày Rằm. Nếu như vậy, thì quả là Cụ lại “chơi ngông”
quả chót: lựa đúng ngày Sóc (mồng một) để đến nhập cuộc tang bồng, rồi chọn
đúng ngày Vọng trăng tròn (15 Âm lịch) để vĩnh viễn rũ trường danh lợi ra
đi(2).
Đúng là… đến cả chết cũng ngông!
(1) Hầu hết các sách đều ghi thân sinh của Nguyễn Công Trứ là Đức Ngạn hầu
Nguyễn Công Tấn, nhưng theo Chu Trọng Huyến trong Nguyễn Công Trứ, con người và
sự nghiệp, Nxb. KHXH, 1995, tr. 11-12, thì tên đúng của cụ phải là Nguyễn Tần,
sinh năm 1720, đỗ Giải nguyên năm 20 tuổi, mất năm 1800, thọ 80 tuổi, chỉ có một
con trai. Còn theo Lê Thước và nhiều nhà nghiên cứu khác, cụ thọ 84 tuổi (tức
là sinh năm 1716, đỗ Hương giải năm 1739, lúc 24 tuổi, mất năm 1800), có nghĩa
là năm Nguyễn Công Trứ ra đời cụ đã 62 tuổi, và có tất cả 3 con trai và 3 con
gái (xem: Lê Thước. Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ,
Lê Văn Tân xuất bản, Hà Nội 1928, tr. 6-7). Có một câu hỏi đặt ra là chẳng lẽ cụ
đậu Hương giải rất sớm (năm 20 hoặc 24 tuổi), rồi được bổ làm Giáo thụ phủ Anh
Sơn, mà mãi 38 năm sau, lúc sinh Nguyễn Công Trứ, cụ vẫn là Tri huyện (huyện Quỳnh
Côi)?
(2) Giáo sư Chương Thâu kể, ông còn nhớ thuở nhỏ thường nghe bà nội hát ru bài
vè về đám ma cố Lớn (tức cụ Nguyễn Công Trứ) như sau: Nhất vui là đám cố Lớn, Dận
bựa Mười bốn, Mắc cơn mưa rào, Hoãn lại bựa sau, Trời yên bể lặng…” (cố: cụ; dận:
đưa tang; bựa: bữa, ngày; mắc: gặp… (tiếng địa phương).
2. NGOÀI VƯỜN - TRONG BUỒNG!
Thuở nhỏ, cậu bé Củng học rất giỏi, thông minh dĩnh
ngộ hơn thiên hạ, lại tinh nghịch, lém lỉnh chẳng ai bì, nổi tiếng “Thần đồng”.
Tài cao trí sắc, đọc rộng nhớ nhiều, những câu đối đáp lỗi lạc của cậu bé Củng
gây cho mọi người nỗi kinh ngạc và thú vị.
Khoang 10 tuổi, Củng theo cha trở về Hà Tĩnh, sống tại
làng Uy Viễn, Nghi Xuân quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung là một người có máu
mặt; ông đứng ra mời thầy đồ về nuôi trong nhà để trẻ con của làng tới học. Và
trong đám học trò đó có cậu bé Củng.
Một hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ nhà chợt
nổi hứng đi vào và xin thầy cho phép ông ra cho các trò một vế đối. Được thầy đồng
ý, ông Đồ Trung nói:
- Ta có câu đối này, trò nào đối hay và đối nhanh trước
sẽ được thưởng một quan tiền!
Rồi ông ta chỉ về phía cây đại đứng ngoài vườn, đọc
vế đối:“Ngoài vườn cây đại nở hoa đại”.
Các học trò ngồi nhìn nhau, mặc dù rất thèm quan tiền
(với các cậu đó là một giấc mơ lớn), nhưng không ai tìm được vế đối lại để lấy.
Thấy cả lớp im lặng, thầy học lên tiếng giục, thì chỉ
có cậu bé Củng ra vẻ ngập ngừng khó nói. Thầy hỏi:
- Trò Củng, sao không đối đi?
Củng khép nép thưa:
- Thưa, con sợ bị quở phạt ạ.
- Trò cứ đối, - ông chủ nhà khuyến khích ra vẻ rộng
lượng, - nếu hay thì ta sẽ thưởng cho, còn nếu có điều gì sơ suất thì ta và thầy
cũng không bắt lỗi trò đâu.
Được lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy đọc:
- Thưa, con xin đối là“Trong buồng ông Trung ấp bà
Trung” ạ!
- Hay quá! Chuẩn quá! Trong đối với ngoài, Đại đối với
Trung, và nở thì tất nhiên phải đối với ấp rồi!
Thầy và trò cả lớp được một trận cười nghiêng ngả,
còn ông chủ nhà Đồ Trung thì đỏ mặt im lặng, và tất nhiên, phải trao cho Củng một
quan tiền!
3. TƯỞNG MẦN BA TRỰ…
Nhận được quan tiền thưởng, tan buổi học trên đường
về Củng gặp một đám trẻ con đang tụ nhau đánh đáo ăn tiền. Như những đứa trẻ
ham chơi khác, Củng liền nhập bọn; và cũng như những đứa trẻ mải chơi khác, cậu
say sưa đánh cho tới khi bị thua hết sạch cả quan tiền mới thôi. Nhưng cái khác
của Củng là ở chỗ, mọi đứa trẻ khi thua bạc sẽ tiếc đứt ruột, hậm hực bỏ về, thậm
chí cả khóc nữa, còn Củng thì vừa đi về nhà vừa đọc:
Tưởng mần ba trự mà chơi vậy,
Bỗng chốc nên quan đạ sướng chưa?!(3)
Thật ra, đây có thể chỉ là một câu nói buột miệng,
lúc đó cậu trò Củng chắc không cố ý làm thơ; nhưng nó đã bộc lộ tính cách ngang
tàng, phóng túng, “tay chơi” của Nguyễn Công Trứ, mà người đời sẽ gọi là thơ
văn khẩu khí; và câu nói đó được truyền tụng khắp làng, rồi đi vào sách vở, lan
ra khắp thiên hạ… thành giai thoại, thành thơ.
(3) Nguyễn Công Trứ đọc theo giọng Nghệ, câu này dịch
ra tiếng phổ thông là:
Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy,
Bỗng chốc nên quan đã sướng chưa?
Câu của cậu Củng có thể hiểu theo hai nghĩa:
- 1, tưởng đánh chơi dăm ba đồng, nào ngờ mất đến cả
quan;
- 2, học ba chữ chơi chơi mà cũng được làm quan, sướng
chưa?
4. SẴN GÁNH CÀN KHÔN GHÉ THẲNG VAI
Vào một ngày hè nóng nực, thầy học dẫn cả đám học
trò đi ra con sông cách trường độ hơn một cây số để tắm mát, hòng làm dịu bớt
cái nóng ghê người của xứ Nghệ. Khi đi qua cái cống lớn đầu làng được xây ghép
bằng những tảng đá xanh, thầy tức cảnh nghĩ ra một vế đối Nôm, bảo các trò cùng
đối:
Đá xanh ghép cống, hòn dưới nống hòn trên.
Trong khi các trò khác đang vắt óc suy nghĩ thì cậu
Củng đã có ngay vế đối:
Ngói đỏ lợp nghè, lớp sau đè lớp trước.
Câu đối về chữ nghĩa thật là chuẩn, lại chơi chữ tài
tình: “cống” vừa là cái cống (bằng đá), vừa là người đỗ Cử nhân (Cống sinh dưới
triều nhà Nguyễn); còn “nghè” vừa là cái miếu nhỏ thờ các danh nhân địa phương
(từ này nay đã ít dùng), vừa là người đỗ Tiến sĩ, tức ông Nghè; thêm vào đó người
đời còn tìm thấy cái thú vị ở khẩu khí của người đối: hậu sinh sẽ khả uý, lớp
sau sẽ hơn (đè) lớp trước!(4).
Đang nói chuyện thì một trận mưa to ập đến, thầy trò
phải vội vàng chạy vào xin trú trong một quán nước ven đường. Ngay lúc đó có một
người đàn ông gánh cỏ đi ngang cũng vội quẳng gánh ngoài trời chạy vào mái hiên
của quán trú mưa. Lát sau, trời vừa ngớt, người đàn ông đã vội vã ra nâng gánh
cỏ lên vai chạy đi tiếp. Nhân đó, thầy bảo các trò thử làm vài câu thơ tức cảnh
nói về người gánh cỏ nọ. Trong khi các cậu bé khác đang vò đầu tìm chữ nghĩa
thì trò Củng đã ứng khẩu đọc hai câu:
Tạnh cơn phong vũ lò ngay mặt,
Sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai.
Thầy học và tất cả mọi người trong quán đều tấm tắc
khen hai câu thơ tuyệt diệu của Củng, vừa hợp cảnh, vừa bộc lộ chí khí của một
đấng trượng phu tương lai. Còn về phép đối thì khỏi phải nói: hoàn chỉnh, chan
chát từng ý, từng chữ - “cơn phong vũ” đối với “gánh càn khôn”, “ngay mặt” đối
với “thẳng vai”…
Và thầy càng khẳng định dự đoán trò Củng về sau sẽ
làm nên công to nghiệp lớn.
5. NÍN HƠI BIỂN ĐỘNG BA TẦNG SÓNG
Một hôm, thầy học đến thăm nhà trò Củng, cùng với
thân phụ của cậu ngồi đàm đạo, lâu lâu hai người lại kéo thuốc lào, thả khói
thơm lừng từng đám bay ra như mây. Củng được phép đúng bên hầu thầy và cha để
hóng chuyện. Chợt thấy cha đưa tay vê vê điếu thuốc nạp vào nõ, cậu vội đốt đóm
đưa lên. Cụ Đức Ngạn Hầu rít một hơi dài khoan khoái, rồi nhả khói bay ra thành
luồng như một con rồng uốn khúc. Cúi mình đón cái điếu cày từ tay cha, bất ngờ
cậu bé Củng ứng khẩu đọc luôn hai câu:
Nín hơi, biển động ba tầng sóng,
Há miệng, rồng bay chín khúc mây.
Thầy học không nín được, vỗ đùi khen hay. Cha của Củng
cũng tròn mắt nhìn, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Như được động viên, Củng sung
sướng đọc tiếp:
Ba tầng sóng dội vang trời bể
Năm sắc mây bay thấp thoáng trời.
Thấy trò Củng đọc bốn câu thơ xuất thần đó, thầy học
đắc ý lắm, gọi cậu đến gần, xoa đầu khen ngợi rồi nói với cụ thân sinh của cậu:
- Trò Củng sẽ có một tương lai phong vân đắc lộ, sự
nghiệp kinh nhân, tôi rất hãnh diện có một môn sinh như Củng. Nhưng ở đây trường
tư nhỏ bé, trình độ các học sinh còn thấp kém nhiều so với Củng. Nếu Củng còn
lưu học ở đây, tôi e sẽ làm uổng phí thì giờ của Củng. Vậy tôi khuyên ngài nên
cho Củng xin lên trường quan Đốc trên tỉnh theo đòi bút nghiên để chóng thành
tài...
Nghe theo lời khuyên của thầy, Củng từ đó được lên tỉnh
thành Hà Tĩnh học.
Trước ngày lên đường đi học với thầy khác, Củng đến
dâng thầy học cũ của mình đôi câu đối để tạ ơn:
Tuy tôn sư chi giáo trạch vô cùng, hà cảm xá cận nhi
cầu viễn;
Nhi quốc gia chi học quy hữu định, tương sử tự hạ tiệm
thăng cao.
Nghĩa là:
Tuy ơn giáo dục của tôn sư vô cùng, đâu dám bỏ nơi gần
mà đi tìm nơi xa;
Nhưng phép học hành của quốc gia có định, nên phải từ
chỗ thấp mà bước lên chỗ cao.
Thế là “túi đàn, cặp sách đề huề”, trò Củng rời đất
Nghi Xuân lên đường vào thành Hà Tĩnh học.
Lúc này cậu đã 15 tuổi, trở thành Nho sinh trường Đốc
học của tỉnh.
6. KHẢ ÚY ĐOAN ĐOAN ĐÍCH HẬU SINH
Vừa mới lên tỉnh học được ít lâu, một chiều nọ đẹp
trời, Nho sinh Củng lang thang dạo phố thì bỗng gặp một đoàn xe ngựa của quan
Tuần phủ đi hành hạt, dù lọng nghênh ngang, tiền hô hậu hoán. Đang lớ ngớ không
biết đường tránh, cậu vô tình cản đường đoàn người ngựa và bị toán lính hầu bắt
tới trình quan về tội vô lễ. Cậu trò vừa bị giải đến nơi, đã nghe quan quát hỏi:
- Sao cậu dám thất lễ với bản quan?
- Bẩm quan lớn, tiểu sinh nguyên học ở trường làng,
vừa mới lên tỉnh chưa biết rõ các nghi lễ nên mới vô tình vô lễ, xin quan lớn
dung thứ.
- À, nếu cậu đúng là sĩ tử trường Đốc học, bản quan
sẽ ra một vế đối, cậu đối hay thì được tha, bằng không sẽ bị giam về tội “phạm thượng”!
Rồi quan đọc:
- Khách khoa bảng, khách văn chương, giữa quan
khách, khách lại gặp khách.
Không nghĩ ngợi lâu, Nho Củng ứng khẩu đối ngay:
- Ai anh hùng, ai hào kiệt, trong trần ai, ai dễ biết
ai!
Củng lại tung ra một câu thơ khẩu khí!
Quan Tuần phủ nghe xong hết lời khen cậu là kẻ thiếu
niên mà chí khí lớn lao, nên chẳng những tha lỗi cho mà còn thưởng thêm một
quan tiền đồng (trị giá bằng sáu quan tiền kẽm).
Rồi quan quay sang nói với các vị đồng hành:
- Quả là Khả úy đoan đoan đích hậu sinh.
Đây vốn là một câu cổ thi, nghĩa là: “Kẻ hậu sinh nầy
rất đáng sợ”.
7. ĐỐI ĐÁP VỚI SƯ
Gần làng Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ có một ngôi
chùa, vị sư trụ trì ở đây là người tài cao học rộng nhưng rất kiêu ngạo, hiếu
thắng. Ông này thường tự cho mình là nhất thiên hạ, xem thường cả Nho Củng vốn
từ lâu đã nổi tiếng thần đồng khắp vùng. Biết vậy, Nho Củng cũng hiếu thắng tìm
dịp gặp thử tài cao thấp.
Nhân một hôm rảnh học từ tỉnh thành về thăm nhà, Nho
Củng bèn tìm tới chùa nọ chơi. Đến nơi, thấy ngoài sân trong điện không có ai,
Củng lại đang khát nên đi thẳng vào bếp chùa để tìm nước uống, thì gặp sư trụ
trì đang lúi húi bên bếp. Quay lại nhìn người lạ, vị sư buông ra một câu không
mấy hiếu khách:
Khách khứa kể chi ông núc bếp. (5)
Cậu Củng nhìn quanh, thấy một cái vại (đồ bằng sành
dùng để muối cà hay d¬ưa) ở góc bếp, liền ứng khẩu đối lại:
Trai chay mà có vại cà sư? (6)
Câu này thực ra được nói lên rất vô tình, nhưng vị
sư kia lại cho rằng Nho Củng thâm ý châm biếm mình có tư tình với bà vãi, nên
chắp tay nhìn lên tượng Phật đọc một câu như thanh minh cho sự đứng đắn của
mình:
Xin chứng minh cho, Nam mô A Di Đà Phật.
Nho Củng chỉ vào cái kiềng trên bếp và cất tiếng đối
lại:
Có giám sát đó, Đông Trù Tư mệnh Táo quân!
Đông trù Tư mệnh Táo quân là thần coi bếp, cầm giữ bản
mệnh của gia chủ. Bên mời Phật, bên nhờ thần ra minh chứng, quả thực là hay; lại
Đông đối với Nam, Quân đối với Phật thì thật là tài!
Đến đây thì vị sư vừa tức vừa hoảng, không ngờ gặp
phải đối thủ trẻ tuổi mà cao cường đến vậy, liền hạ một chiêu cuối cùng, vừa vỗ
ngực ta đây vừa hăm doạ đối thủ:
Thuộc ba mươi sáu quyển kinh, chẳng thiên địa thánh
thần nhưng khác tục!
Nho Củng cũng quyết định tung một đòn hạ gục:
Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch
ra người! (7)
Tới đây vị sư đành nín thinh, chấp nhận thua cuộc, từ
đó không dám cao ngạo nữa.
Lại có người kể, chuyện chưa dừng ở đấy. Nho Củng đắc
thắng ra về, nhưng vừa bước đến giữa sân thì hai con chó nhà chùa xổ ra cắn, cắn
quyết liệt như thể trả thù cho chủ vậy. May có chú tiểu ngăn mãi mới được. Nho
Củng dừng lại nhìn quanh chùa rồi ngâm hai câu như một lời nhắn gửi:
Bụt cũng hiền lành, sư cũng khá,
Còn hai con chó chửa từ bi.
(5) Người Nghệ gọi ông đầu rau là ông núc bếp; câu
này còn có ý diễu cợt: khách khứa gì mà lại xông (núc) vào bếp nhà người ta!
(6) Trai chay: Trai giới và chay tịnh. Tiếng Nghệ chữ
“vại” (vật bằng sành dùng để đựng cà) và “vãi” (ni cô) đều đọc như nhau, nên
câu này còn có ý trêu chọc: Người / nơi trai chay sao lại có (bà) vãi cà (động
từ: áp sát, cọ xát) ông sư?
(7) Cái hay là kệ đối với kinh. Mặc kệ là bất chấp.
Câu này có ý nói làm sư đi tu là không giữ trọn đạo quân thần phụ tử, dầu có đọc
hết kinh sách cũng không phải là người tốt.
8. CÓ AI VÔ LÝ NHƯ THI SĨ
Gần làng Uy Viễn có bến Giang Đình trên bờ sông Lam,
là một trong “Nghi Xuân bát cảnh” (tám cảnh đẹp của Nghi Xuân), trên bến có khu
chợ nổi tiếng với những đặc sản miền quê và cũng là nơi thường lượn lờ, gặp gỡ
của trai thanh gái tú. Và một điều thú vị là trên con đường dẫn vào chợ, nơi
ngã ba, có một mảnh đất nhỏ không hiểu sao mọi bàn chân đều không dẫm lên, đi
vòng qua, nên chỗ đó cỏ xanh bốn mùa, những bụi cây nở hoa đẹp tươi và duyên
dáng.
Một chiều xuân nọ, Nguyễn Công Trứ vừa thơ thẩn đến
ngã ba đó thì thấy từ đằng xa một cô gái cũng đang đi lại. Chàng trai làm ra vẻ
đang mê mải ngắm hoa, nhưng thực ra là câu giờ để đợi giai nhân đến. Biết tỏng
chàng Nho sinh kia là ai và vốn không lạ gì những mẹo vặt kiểu đó, khi đến gần
cô gái mỉm cười đọc, như bâng quơ:
Có ai vô lý như thi sĩ,
Hoa nở giữa đường cũng vấn vương.
Cô gái ấy vốn là một nghệ sĩ dân gian làng nghệ thuật
Ca Trù Cổ Đạm, tài sắc có thừa. Biết đã gặp “đối thủ” cao tay, chàng thi sĩ dù
vô lí vẫn không hề bối rối, mà lại buông giọng ỡm ờ như nói với bông hoa ven đường:
Trời đà cho sắc cho hương,
Hoa kia nỡ để gió sương đãi đằng.
Chuyện đến đây, có người nói cô gái tự biết mình
không phải là “kỳ phùng địch thủ” của chàng “thi sĩ vô lí” kia nên e thẹn bước
đi, kéo theo cái nhìn xao xuyến của kẻ đa tình; nhưng cũng có người kể, sau một
phút lúng túng, nàng đã trả đòn ngoạn mục:
Sắc hương là của đất trời,
Phận ai ai giữ, ai người phải lo!
Rồi không đợi chàng thi sĩ kịp đáp lời, sắc hương đã
nhẹ gót xa dần với tiếng cười khúc khích…
9. KÉM TÀI, TIỆN ĐỆ XIN NHƯỜNG LÀM ANH
Ở phủ Thạch Hà (Hà Tĩnh) có Đầu phủ (8) Nguyễn Trùng
Quang cũng hay tự thị, tự đắc là hay chữ, học rộng nhất trong vùng. Nghe đồn thần
đồng Củng phong lưu, tài giỏi, anh ta chưa tin, những muốn gặp để thử hơn thua
thế nào.
Một lần, Trùng Quang cho người mời thần đồng Củng tới
nhà mình chơi. Đúng ngày hẹn, Nho Củng tới thì thấy ngoài cửa chủ nhà có dán một
đôi câu đối chữ Hán:
Sinh nê nhi bất nhiễm,
Hữu xạ tự nhiên hương.
Nghĩa là:
Sinh nơi bùn mà không nhiễm,
Có chất xạ tự nhiên thơm.
Vào trong nhà, lại thấy trên bàn có một tờ giấy trắng,
một cây bút lông và một đĩa mực mài sẵn, Nho Củng biết ngay chủ nhà muốn thử
tài mình, bèn xin phép cầm bút viết liền một đôi câu đối Nôm như sau:
Cửa sấm dám đâu mang trống lại,
Đất người đành phải vác chiêng đi (9).
Đọc xong hai câu thơ, Đầu phủ họ Nguyễn, người tự đặt
cho mình tên là Trùng Quang, có nghĩa là hai lần sáng, lập tức lấy làm tâm phục
khẩu phục, liền viết tặng khách hai câu thơ chữ Hán:
Khắc chấn danh gia năng hữu tử;
Bất tài tiện đệ nhượng vi huynh.
Nghĩa là:
Nối nghiệp, danh gia sinh con tài giỏi,
Kém tài, tiện đệ xin nhường làm anh.
và Đầu phủ Quang nhất định tôn Nho Củng làm anh, mặc
dầu nhiều hơn Nho Củng đến năm sáu tuổi.
Đến khi chia tay, Nguyễn Trùng Quang lại viết tặng
“Đại huynh” thêm hai câu thơ Hán văn như sau:
Kinh nhân văn tự đề giai cú,
Tuyệt thế anh tài kiến thiếu niên.
Nghĩa là:
Đề câu thơ hay văn tự kinh người,
Thấy kẻ thiếu niên anh tài tuyệt thế.
(8) Đầu phủ là người đỗ đầu trong một kỳ khảo hạch tại
phủ.
(9) Hai câu này lấy từ hai câu tục ngữ: “Đánh trống
trước cửa nhà sấm” và “Mang chiêng đi đánh đất người”, ý nói: tôi đâu dám khoe
khoang trước một người tài giỏi như ông, nhưng vì ông đã muốn thách thức thì
tôi cũng đành thể hiện vậy.
10. BA VẠN ANH HÙNG ĐÈ XUỐNG DƯỚI
Một lần có việc đi xa, trời rét, chàng học trò Nguyễn
Công Trứ ghé vào quán nước bên đường nghỉ chân, rồi rúc vào ổ rơm trong quán ngủ
nhờ. Vừa lúc đó, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn một đạo quân đi ngang qua cũng ghé
vào quán. Những người trong quán thấy quan quân rầm rập thì sợ hãi nép tận vào
các góc xa, riêng Nguyễn Công Trứ vẫn đắp chiếu nằm trên ổ rơm ngủ khì như
không có chuyện gì xảy ra. Một viên quản cơ thấy vậy nạt nộ om sòm, hất chiếu
đánh thức kẻ vô lễ dậy. Chàng thư sinh điềm nhiên, chậm rãi ngồi lên, không tỏ
vẻ gì là sợ hãi cả. Thấy vậy, Tả quân Lê Văn Duyệt lấy làm lạ, hỏi:
- Nhà ngươi là ai, mà thấy đạo quân của ta đến vẫn cứ
nằm lì, không đứng dậy chào cho phải phép? Ngươi không sợ ta trách phạt hay
sao?
Chàng học trò khôn khéo đáp lời quan:
- Bẩm quan lớn, tiểu sinh vốn biết đạo quân của ngài
là đạo quân nhân nghĩa, chẳng vô cớ làm hại ai bao giờ, nên không việc gì phải
sợ. Vả lại, tiểu sinh là học trò, đi đường xa mệt, gặp trời mưa lạnh lại có ổ
rơm ấm quá nên trót ngủ quên mất ạ.
Thấy Nguyễn Công Trứ quả có dáng vẻ nho nhã, Tả quân
liền bảo:
- Nếu ngươi đúng là học trò thì hãy làm vài câu thơ
vịnh cảnh nằm ổ rơm đắp chiếu như vừa rồi, nếu hay ta sẽ tha, bằng không sẽ chịu
phạt đó.
Cậu Nho sinh dường như chỉ đợi có thế, ứng khẩu đọc
ngay:
Ba vạn anh hùng đè xuống dưới
Chín lần thiên tử đội lên trên. (10)
Tả quân Lê Văn Duyệt nghe xong, giật mình khen hay,
hỏi tên tuổi, thưởng cho Trứ một số tiền rồi thả cho đi, và ghi nhớ trong lòng
về người học trò kỳ tài ấy.
(10) Câu thơ vừa tả thực vừa ẩn dụ đầy khẩu khí. “Ba
vạn anh hùng” là ổ rơm (anh hùng rơm!), “Chín lần thiên tử” vừa chỉ nhà vua, vừa
chỉ chiếc chiếu (trùng âm với chiếu chỉ của nhà vua, và chiếu chỉ nhà vua thường
bắt đầu bằng câu “Cửu trùng thiên tử chiếu”.
11. SAO KHÔNG LO LIỆU CÒN NGỒI CHI ĐÂY
Thuở còn hàn vi, Nguyễn Công Trứ treo trong nhà một
bức tranh vẽ cảnh buổi chiều tà, ngang trời là đàn chim vỗ cánh giăng giăng bay
về núi, lại có một ngư ông ngồi bên cầu buông cần câu cá nhưng lại có dáng đang
nghĩ ngợi điều gì. Chàng hàn sĩ họ Nguyễn làng Uy Viễn đề vào bức tranh ấy đôi
câu thơ:
Chim bay về núi tối rồi,
Sao không lo liệu còn ngồi chi đây.
Câu thơ như một sự tự nhắc nhở mình, dù vui thú yên
hà cũng không quên sự nghiệp nam nhi cần lo liệu khi đời còn chưa quá muộn. Tuy
nhiên, tương truyền khi hai câu thơ được đồn ra ngoài, có những kẻ quyền thế,
biết chàng trai họ Nguyễn quả có tài lại ngang tàng, nên tâu về triều đình tìm
cách thu dụng để khỏi ngại về sau.
Người ta kể, cái “hùng khí” đó đã được thể hiện ở cậu
bé Củng/Trứ từ rất sớm. Khi còn để chỏm đi học, cậu đã vẽ một bức tranh con gà
trống hùng dũng vươn cổ gáy đem dán ngoài cửa nhà và đề hai câu thơ vừa ngộ
nghĩnh trẻ con vừa đầy khẩu khí:
Cộc cồ cô, cộc cồ cô
Nhà bay không dậy tau vô mổ giừ (11).
(11) Nhà bay: các người; tau: tao; giừ: bây giờ (tiếng
địa phương).
(còn tiếp.... )
Xem Thêm :
Nguyễn Công Trứ với cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét