Người dịch: Lê Lam
13-12-2019
Thủ đô Helsinki của Phần Lan, Ảnh: internet
Lời người dịch: Năm 2016, cuốn sách “The Nordic Theory of Everything: In Search of a Better Life” của Anu Partanen được HarperCollins xuất bản, đã gây lên một làn sóng tranh luận sôi nổi trong dư luận Mỹ. Một trong những nhận xét đáng chú ý về cuốn sách mà tôi đọc được là người nhận xét đặt câu hỏi: nếu Phần Lan ưu việt như vậy, tại sao tác giả cuốn sách lại chọn sống ở Mỹ? Nay Anu Partanen đã cùng chồng, con về sống và làm việc ở Phần Lan. Bài viết dưới đây được Anu Partanen và Trevor Corson (chồng Anu) thực hiện sau hơn 1 năm rời Mỹ về sống lại ở Phần Lan, đăng trên “The New York Times”.
***
Hai năm trước chúng tôi sống trong một khu phố dễ chịu ở Brooklyn. Chúng tôi là những người làm chuyên môn giàu kinh nghiệm, có một cuộc sống nhiều ưu đãi. Chúng tôi vừa mới sinh con đầu lòng. Chúng tôi là công dân Hoa Kỳ và tương lai của chúng tôi như một gia đình có vẻ tươi sáng. Nhưng chúng tôi cảm thấy vô cùng bất an và lo lắng.
Thu nhập của chúng tôi bị hao hụt một cách đáng ngờ từ những hợp đồng tạm thời vì các nhà tuyển dụng độc lập. Việc tiếp cận bảo hiểm y tế là một mối lo lắng thường trực của chúng tôi, vì phải tranh giành hết năm này đến năm khác trong các kế hoạch sử dụng lao động tư nhân, các kế hoạch đòi hỏi quá đáng với những nhà báo tự do, và các chương trình chăm sóc sức khỏe được gọi là Obamacare phức tạp và đắt đỏ. Có một đứa trẻ, chúng tôi sớm phải đối mặt với chi phí nhà trẻ quá lớn. Chưa kể đến các khoản đóng góp dành cho giáo dục trong tương lai có thể khiến chúng tôi bất lực, cho dù nhà ở trong một khu học chánh tốt hay học phí trường tư. Rồi sau đó có thể học đại học. Nói cách khác, chúng tôi phải chịu đựng những điều hết sức đau đầu đang hành hạ ngày càng nhiều người Mỹ[1], thậm chí cả những người thuộc tầng lớp tương đối có đặc quyền.
Khi chúng tôi đang suy ngẫm về những điều này, Anu nhận được một việc làm ở quê nhà: Helsinki, Phần Lan.
Phần Lan là một trong những quốc gia Bắc Âu mà chúng ta từng nghe một số người Mỹ, trong đó có cả Tổng thống Trump, mô tả là không bền vững và can thiệp quá mức “socialist nanny states” (nhà nước mà chính phủ quan tâm và can thiệp quá mức vào quyền cá nhân – ND). Khi chúng tôi cân nhắc việc định cư ở đó, chúng tôi đã thảo luận với gia đình Trevor – anh ấy lớn lên ở Arlington, bang Virginia – và những người bạn Mỹ của chúng tôi. Nhiều người trong số họ khuyến khích chúng tôi đi. Ngay cả một nhà đầu tư mạo hiểm, mà chúng tôi biết ở Thung lũng Silicon, nói nghe có vẻ đáng ghen tị: “Tôi sẽ chuyển đến Phần Lan ngay lập tức”.
Thế là chúng tôi chuyển.
Chúng tôi đã sống ở Phần Lan được hơn một năm. Cuộc sống của chúng tôi ở đây khác với ở Hoa Kỳ rất lớn, song có lẽ không phải theo cách mà nhiều người Mỹ có thể tưởng tượng được. Những gì chúng tôi trải qua là có thêm tự do cá nhân và cuộc sống dễ quản lý hơn nhiều. Chắc chắn rằng chúng tôi vẫn còn nhiều thách thức – nuôi dạy một đứa trẻ, giúp đỡ cha mẹ già, ngược xuôi với những đòi hỏi của đời sống, sinh hoạt hàng ngày và công việc.
Nhưng ở Phần Lan, chúng tôi nghiễm nhiên được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe dành cho toàn dân do người đóng thuế chi trả, với chất lượng tương đương của Hoa Kỳ (bất chấp những tuyên bố sai lệch mà bạn nghe thấy ngược lại), mà không cần hàng đống giấy tờ khó hiểu hoặc tranh cãi với các hóa đơn quá mức. Con của chúng tôi được nhận vào một nhà trẻ công cộng tuyệt vời, chuyên nghiệp và đa sắc tộc với các hoạt động phong phú và chuyên nghiệp khiến chúng tôi phải ngạc nhiên. Chi phí thế nào? Khoảng 300 USD một tháng – mức tối đa với nhà trẻ công, bởi vì ở Phần Lan, tất cả các gia đình được trợ cấp chi phí giữ trẻ.
Và nếu chúng tôi ở đây, con gái của chúng tôi sẽ được vào học ở một trong những hệ thống giáo dục cơ sở tốt nhất thế giới mà phụ huynh không phải trả tiền, cho dù nơi chúng tôi ở là một vùng ngoại ô. Giáo dục đại học cũng sẽ được miễn học phí. Nếu chúng tôi có một đứa con khác, chúng tôi sẽ nghiễm nhiên được nghỉ phép có lương dành cho bố mẹ và trong gần một năm bố mẹ có thể thay nhau nghỉ. Kỳ nghỉ được trả lương hàng năm ở đây gồm bốn, năm hoặc thậm chí sáu tuần cũng được quy định.
So với cuộc sống của chúng tôi ở Hoa Kỳ, điều đó thật tuyệt vời. Tuy nhiên, với nhiều người ở Mỹ, hệ thống Phần Lan vẫn có thể gợi lên những ấn tượng về sự hỗn loạn và chủ nghĩa độc đoán. Song, người dân Phần Lan có mức độ hài lòng cuộc sống cực kỳ cao. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế xếp hạng họ cao nhất thế giới[2], theo sau là người Na Uy, Đan Mạch, Thụy Sĩ và Iceland. Năm nay, Báo cáo Hạnh phúc Thế giới[3] cũng cho thấy Phần Lan là quốc gia hạnh phúc nhất trên trái đất, năm thứ hai liên tiếp.
Nhưng chắc chắn, nhiều người ở Hoa Kỳ sẽ kết luận, người dân và doanh nghiệp Phần Lan phải trả giá đắt cho việc bị mất các quyền tự do, cơ hội và sự giàu có. Đúng, Phần Lan phải đối mặt với những thách thức kinh tế của riêng mình, và người Phần Lan là những người kêu ca có tiếng mỗi khi gặp điều sai trái. Nhưng với hệ thống hiện tại của mình, Phần Lan đã trở thành một trong những xã hội giàu có nhất thế giới, và giống như các quốc gia Bắc Âu khác, đây là nơi có nhiều công ty toàn cầu cực kỳ thành công.
Thật vậy, một báo cáo gần đây[4] của chủ tịch chiến lược thị trường và đầu tư của JP Morgan Asset Management đã đưa ra một kết luận đáng ngạc nhiên: Khu vực Bắc Âu không chỉ “thân thiện với doanh nghiệp như Mỹ” mà còn tốt hơn về các chỉ số thị trường tự do quan trọng, như bảo vệ tài sản tư nhân nhiều hơn, sự kiểm soát của chính phủ ít tác động hơn đến cạnh tranh và cởi mở hơn đối với thị trường và dòng vốn. Theo Ngân hàng Thế giới[5], việc kinh doanh ở Đan Mạch và Na Uy thực sự dễ dàng hơn so với ở Hoa Kỳ.
Phần Lan cũng có mức linh động kinh tế cao qua các thế hệ. Một báo cáo của Ngân hàng Thế giới[6] năm 2018 cho biết rằng trẻ em Phần Lan có cơ hội thoát khỏi vị thế kinh tế của cha mẹ và tự mình thành công nhiều hơn so với trẻ em ở Hoa Kỳ.
Cuối cùng, và có lẽ gây sốc nhất, nhóm theo dõi tự do phi đảng phái Freedom House đã quả quyết[7] rằng người dân Phần Lan thực sự được hưởng mức độ tự do cá nhân và chính trị cao hơn, và các quyền chính trị được bảo đảm hơn so với công dân Hoa Kỳ.
Phải làm gì với những điều này? Trước tiên, các chính trị gia ở Hoa Kỳ nên cân nhắc về việc gọi các nước Bắc Âu “những người chủ nghĩa xã hội”. Từ vị trí của chúng tôi, thuật ngữ này dường như thịnh hành ở phía bên kia Đại Tây Dương hơn ở đây.
Ở Mỹ, Thượng nghị sĩ Bernie Sanders và Đại diện Alexandria Ocasio-Cortez thường bị coi là những người cấp tiến nguy hiểm. Ở Phần Lan, nhiều ý tưởng chính sách của họ có vẻ bình thường – và cụ thể không phải là người xã hội chủ nghĩa.
Khi ông Sanders ra tranh cử tổng thống năm 2016, điều ngạc nhiên với những người bạn Phần Lan của chúng tôi là Hoa Kỳ, một đất nước có rất nhiều doanh nghiệp tư bản giàu có và thành công, đã không thiết lập một chương trình chăm sóc sức khỏe công phổ thông và tiếp cận học phí đại học miễn phí. Những chương trình như vậy có xu hướng được người Bắc Âu xem là những điều cơ bản, cần thiết đối với bất kỳ quốc gia nào thân thiện với kinh doanh để cạnh tranh trong thế kỷ 21.
Kỳ lạ hơn nữa là ở Phần Lan, bạn không thực sự thấy loại phong trào xã hội chủ nghĩa đang trở nên phổ biến ở một số nhóm tiến bộ hơn của cánh tả ở Mỹ, đặc biệt là xung quanh các mục tiêu như cắt giảm thị trường tự do và thậm chí quốc hữu hóa các phương tiện sản xuất. Điều mỉa mai là nếu bạn bảo vệ chủ nghĩa xã hội như thế ở Phần Lan, bạn sẽ có được vài người tham gia.
Như vậy, điều gì có thể giải thích việc này – có phải chủ nghĩa xã hội trên thực tế dường như phổ biến ở Hoa Kỳ tư bản hơn ở Phần Lan được cho là xã hội chủ nghĩa không?
Một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã từng được cố gắng một lần ở Phần Lan. Nhưng đó là hơn một trăm năm trước. Phần Lan đang trong quá trình công nghiệp hóa khi đế chế Nga sụp đổ và Phần Lan giành được độc lập. Công nhân thành thị và nông thôn Phần Lan cũng như các tá điền, chán ngấy với điều kiện làm việc khốn khổ của mình, đã nổi dậy. Phản ứng từ các nhà tư bản Phần Lan, các điền chủ bảo thủ và các thành viên của tầng lớp trung lưu và thượng lưu là nhanh chóng và bạo lực. Nội chiến nổ ra và hệ quả hàng loạt người chết. Sau nhiều tháng chiến đấu, các nhà tư bản và phe bảo thủ đã đè bẹp cuộc nổi dậy xã hội chủ nghĩa. Hơn 35.000 người thiệt mạng. Bị thiệt hại và nghèo nàn, người Phần Lan đã dành nhiều thập kỷ để cố gắng phục hồi và xây dựng lại.
Vậy điều gì đã trở thành chủ nghĩa xã hội ở Phần Lan sau đó? Theo một nhà sử học chính trị nổi tiếng người Phần Lan, Pauli Kettunen ở Đại học Helsinki, sau cuộc nội chiến, các ông chủ Phần Lan đã ủng hộ ý tưởng “một nông dân tự do độc lập và ý chí cá nhân của ông ta để làm việc” và sử dụng thành công ý tưởng chủ nghĩa cá nhân anh hùng này để làm suy yếu các nghiệp đoàn lao động. Mặc dù các nhà xã hội chủ nghĩa trở lại đóng một vai trò trong chính trị Phần Lan, trong nửa đầu thế kỷ 20, Phần Lan đã ngăn cản chủ nghĩa xã hội trở thành một lực lượng cách mạng – và làm theo cách có vẻ hết sức Mỹ.
Phần Lan rơi vào một cuộc xung đột đẫm máu khác, với chi phí lớn, khi chiến đấu chống Liên Xô Cộng sản láng giềng trong Thế chiến II. Sau chiến tranh, các công đoàn đã có được sức mạnh, mang lại thiện cảm xã hội chủ nghĩa khi đất nước bước vào kỷ nguyên công nghiệp hóa và quốc tế hơn. Đây là khi lịch sử Phần Lan có một bước ngoặt bất ngờ.
Giới chủ Phần Lan đã rất khó khăn để nhận ra các mối đe dọa chủ nghĩa xã hội tiếp tục đặt ra cho chủ nghĩa tư bản. Họ cũng thấy mình chịu áp lực ngày càng tăng từ các chính trị gia đại diện cho nhu cầu của người lao động. Muốn tránh xung đột thêm, và để bảo vệ tài sản tư nhân và các ngành công nghiệp mới của họ, các nhà tư bản Phần Lan đã thay đổi chiến thuật. Thay vì bóc lột người lao động và cố gắng níu giữ họ, sau Thế chiến II, các nhà tư bản Phần Lan đã hợp tác với chính phủ để vạch ra các chiến lược dài hạn và thảo luận về các kế hoạch này với các công đoàn để lôi kéo người lao động.
Đáng ngạc nhiên hơn, các nhà tư bản Phần Lan cũng nhận ra rằng họ sẽ có lợi ích lâu dài khi chấp nhận tăng thuế lũy tiến. Các khoản thuế sẽ giúp chính phủ chi trả cho các chương trình mới để đảm bảo cho người lao động khỏe mạnh và làm việc hiệu quả – và điều này sẽ xây dựng một thị trường lao động tốt hơn. Các chương trình này đã trở thành dịch vụ đóng thuế phổ thông của Phần Lan ngày nay, bao gồm chăm sóc sức khỏe, giáo dục công, cha mẹ được trả lương khi sinh con, bảo hiểm thất nghiệp và những thứ tương tự.
Nếu những động thái này của các nhà tư bản Phần Lan nghe có vẻ khó tưởng tượng, đó là vì người dân ở Hoa Kỳ đã đặt ra một huyền thoại rằng các chương trình phổ thông như thế này của chính phủ không thể song hành với các doanh nghiệp tư nhân có lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Như để củng cố sự bất khả thi của những sự đồng hành như vậy, mùa thu năm ngoái, chính quyền Trump đã công bố một báo cáo[8] đặc biệt cho rằng chủ nghĩa xã hội Bắc Âu đã ảnh hưởng tiêu cực đến mức sống của người Bắc Âu.
Tuy nhiên, một nghiên cứu[9] năm 2006 của các nhà nghiên cứu Phần Lan, Markus Jantti, Juho Saari và Juhana Vartiainen đã chứng minh điều ngược lại. Đầu tiên, trong suốt thế kỷ 20 – và cả cho đến ngày nay – Phần Lan vẫn là một quốc gia và một nền kinh tế gắn kết với thị trường, doanh nghiệp tư nhân và chủ nghĩa tư bản.
Thậm chí các học giả này còn chứng minh rằng sự tăng trưởng và năng động của các nhà tư bản Phần Lan đã được giúp đỡ với cam kết của nhà nước để cung cấp các dịch vụ công hào phóng nhằm đem lại các phúc lợi cơ bản cho con người. Các dịch vụ này đã ngăn ngừa và hạn chế các rủi ro và sự trục trặc gây ra bởi sự đổi mới tư bản.
Với nền tảng ổn định cho sự tăng trưởng và đổ vỡ của Phần Lan, nền kinh tế thị trường tự do nhỏ bé nhưng năng động này đã vượt xa trọng lượng của nó. Một số doanh nghiệp đáng chú ý nhất của đất nước gồm có hãng điện thoại di động lớn nhất thế giới, một trong những hãng sản xuất thang máy lớn nhất thế giới và hai trong số các công ty game di động thành công nhất thế giới. Đến Phần Lan hôm nay sẽ thấy điều rõ ràng là chất lượng cuộc sống được nhiều người biết đến đang diễn ra trong một nền kinh tế nhộn nhịp của các trung tâm mua sắm cao cấp, xe hơi ưa chuộng và các công ty tư nhân cạnh tranh quốc tế.
Các nước Bắc Âu khác đã thực hiện hình thức chủ nghĩa tư bản này thậm chí lâu dài hơn Phần Lan và với nhiều thành công hơn. Ngay từ những năm 1930, theo Pauli Kettunen, các ông chủ trên khắp khu vực Bắc Âu đã chứng kiến thảm họa của cuộc Đại khủng hoảng. Đối với họ bài học rõ ràng là: thỏa hiệp và theo đuổi cách tiếp cận của Bắc Âu đối với chủ nghĩa tư bản là sự lựa chọn thông minh.
Các nước Bắc Âu có sự khác biệt nhau, và tất cả các nước đều có sai lầm, khuyết điểm, lịch sử độc đáo và những bất đồng dân sự. Các tranh chấp giữa các công đoàn lớn mạnh và giới chủ giúp giữ cho hệ thống cân bằng. Thường thì nó trở nên xáo trộn: chỉ trong tuần này, thủ tướng Phần Lan đã từ chức trong một cuộc tranh cãi về lao động.
Nhưng nói chung, phần lớn giới chủ của các nước Bắc Âu đã đi đến một công thức đơn giản: chủ nghĩa tư bản hoạt động tốt hơn nếu người lao động được trả lương xứng đáng và được hỗ trợ bởi các dịch vụ công có chất lượng cao, có trách nhiệm, cho phép mọi người sống khỏe mạnh, cuộc sống xứng đáng và tận hưởng cơ hội bình đẳng thực sự cho bản thân và con cái họ. Với chúng tôi, điều đó có nghĩa là được tăng thêm các quyền tự do cá nhân và quyền chính trị của mình – chứ không phải là cái khác.
Rõ ràng điều này đòi hỏi các nhà tư bản và các tập đoàn phải trả lương công bằng và nhiều thuế hơn so với các nhà tư bản và các tập đoàn Mỹ hiện đang làm. Công dân Bắc Âu thường phải trả nhiều thuế hơn. Điều này nghe có vẻ khó lọt tai ở Mỹ, nơi các nhà lãnh đạo kinh doanh và các nhà kinh tế luôn cảnh báo rằng tăng thuế sẽ làm chậm tăng trưởng và giảm khuyến khích đầu tư.
Tuy nhiên, đây là điều buồn cười: Trong hơn 50 năm qua, nếu bạn đầu tư vào một lô cổ phiếu của Bắc Âu, bạn sẽ kiếm được lợi nhuận thực tế hàng năm cao hơn so với thị trường chứng khoán Mỹ trong cùng nửa thế kỷ, theo dữ liệu chứng khoán toàn cầu[10] được Credit Suisse công bố.
Các nhà tư bản Bắc Âu không ngớ ngẩn. Họ biết rằng họ vẫn sẽ kiếm được lợi nhuận tài chính rất hời ngay cả sau khi trả thuế. Họ giữ đủ lợi nhuận để sống xa hoa, nắm giữ ảnh hưởng và có được địa vị xã hội. Có vài chục tỷ phú ở Bắc Âu. Công dân Bắc Âu cũng không ngờ nghệch. Nếu bạn là thành viên của tầng lớp trung lưu lớn mạnh ở Phần Lan, bạn thường nhận được một thỏa thuận tổng thể tốt hơn cho các khoản thuế và chi tiêu cá nhân, cũng như kết quả chất lượng cao hơn so với các đối tác Mỹ – và ít rắc rối hơn.
Tại sao giới giàu có ở các nước Bắc Âu chấp nhận điều này? Một số nhà tư bản Bắc Âu thực sự tin vào sự bình đẳng về cơ hội và nhận ra giá trị của một xã hội đầu tư vào tất cả mọi người. Nhưng có một lý do phổ biến hơn nữa: đóng thuế là một cách thuận tiện để các nhà tư bản thuê người lao động ngoài, giữ cho họ được khỏe mạnh và được đào tạo.
Trong khi các công ty ở Hoa Kỳ đương đầu thực hiện các chương trình y tế và tìm kiếm những người lao động được đào tạo đầy đủ, xã hội Bắc Âu yêu cầu chính phủ của họ cung cấp dịch vụ công chất lượng cao cho mọi công dân. Điều này giúp các doanh nghiệp được giải phóng để tập trung vào những gì họ làm tốt nhất: kinh doanh. Nó cũng thuận tiện cho những người khác. Tất cả người dân Phần Lan, bao gồm lao động chân tay, người nhập cư hợp pháp, nhà quản lý có mức lương cao và gia đình khá giả, được hưởng lợi rất nhiều từ cùng một hệ thống chăm sóc sức khỏe phổ thông của Phần Lan và các trường công lập đẳng cấp thế giới.
Có một bài học lớn ở đây: Khi các nhà tư bản nhận thức chính phủ là đồng minh hậu cần chứ không phải là kẻ thù tư tưởng và khi mọi công dân đều có phần trong các cơ sở công lập chất lượng cao, thì điều ngạc nhiên là chính phủ có thể hoàn thành công việc tốt như thế nào.
Cuối cùng, khi chúng ta ấn định sai rằng các quốc gia Bắc Âu là chủ nghĩa xã hội, chúng ta không nhận ra điều thực sự của khu vực Bắc Âu là: một phòng thí nghiệm nơi các nhà tư bản đầu tư vào sự ổn định lâu dài và hưng thịnh của con người trong khi duy trì lợi nhuận tốt.
Các nhà tư bản ở Hoa Kỳ đã đi một con đường khác. Họ đã cắt giảm thuế, chính phủ suy yếu, xé nát các công đoàn và tư nhân hóa các dịch vụ thiết yếu trong việc theo đuổi lợi nhuận vượt mức. Tất cả những điều này khiến người lao động dễ bị tổn thương trước sự xâu xé năng nổ của chủ nghĩa tư bản. Ngay cả những người Mỹ có vị trí tốt hiện đang phải vật lộn dưới áp lực suy nhược, và một bộ phận lớn người dân miền Tây hoang dã đầy nguy hiểm, nơi nghèo đói, vô gia cư, y tế phá sản, nghiện ngập và giam cầm có thể chỉ là một chút xui xẻo. Người Mỹ được bảo rằng đây là tự do và đó là cách sống anh hùng nhất. Đấy cũng là thông điệp người Phần Lan được chỉ bảo cách đây một thế kỷ.
Nhưng có phải cách tiếp cận này là cách hiệu quả nhất hoặc thậm chí là có lợi nhất cho các nhà tư bản ở Mỹ làm kinh doanh không? Không có gì ngạc nhiên khi sự phẫn nộ và sợ hãi đã trở nên lan tràn ở Hoa Kỳ, và Tổng thống Trump đã được bầu dựa trên lời hứa sẽ khiến đồng hồ chạy ngược với toàn cầu hóa. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi người lao động Mỹ đang đấu tranh lại; số lượng công nhân tham gia các cuộc đình công năm ngoái tại Hoa Kỳ là cao nhất[11] kể từ những năm 1980, và cuộc đình công của General General Motors năm nay[12], kéo dài nhất trong gần 50 năm của công ty. Cũng không ai ngạc nhiên rằng một nửa thế hệ người Mỹ đang trưởng thành, từ 18 đến 29 tuổi, có một cái nhìn tích cực về chủ nghĩa xã hội, theo cuộc thăm dò của Gallup[13].
Triển vọng về một tương lai đầy những người xã hội chủ nghĩa dường như cuối cùng cũng nhận được sự chú ý của một số nhà lãnh đạo kinh doanh ở Mỹ. Trong nhiều năm, nhà đầu tư mạo hiểm Nick Hanauer đã cảnh báo “các triệu phú” của ông rằng, những người giúp đỡ họ đang đến với chúng tôi. Warren Buffett đã kêu gọi thuế cao hơn đối với người giàu[14], và năm nay, tỷ phú quỹ đầu cơ Ray Dalio thừa nhận rằng[15] “chủ nghĩa tư bản về cơ bản không hoạt động đối với đa số người dân.”
Peter Georgescu, chủ tịch danh dự của Young & Rubicam, có lẽ đã nói điều đó một cách ngắn gọn nhất: Ông thấy chủ nghĩa tư bản “tự tử từ từ.”[16] Những tháng gần đây, những lo ngại như vậy đã lan rộng khắp các cơ sở tư bản. Tờ Financial Times đã làm rung chuyển độc giả thân thiết với tờ báo của họ bằng một loạt bài đáng chú ý[17], thừa nhận rằng “chủ nghĩa tư bản đã thực sự trở thành trò gian lận”[18] và “nó rất cần được thiết lập lại”[19], để khôi phục thị trường tự do thực sự và mang lại cơ hội thực sự. Các đầu tàu về tài chính và công nghiệp ở Hoa Kỳ cũng làm rung chuyển thế giới tài chính, với tuyên bố chung từ Hội nghị bàn tròn kinh doanh rằng giờ đây họ sẽ không chỉ ưu tiên lợi nhuận mà còn cả nhân viên, khách hàng, cổ đông và cộng đồng.”[20] Họ đang gọi đây là “chủ nghĩa tư bản cổ đông.”
Nếu những người khổng lồ trong ngành này nghiêm túc trong việc tìm kiếm một cách tiếp cận bền vững hơn, thì không cần phải phát minh lại bánh xe. Họ có thể chỉ cần tham khảo các đối tác Bắc Âu của họ. Nếu làm như vậy, họ có thể nhận ra rằng thành công của chủ nghĩa tư bản Bắc Âu không phải do các doanh nghiệp làm nhiều hơn để giúp đỡ cộng đồng. Trái lại, theo một cách nào đó: các nhà tư bản Bắc Âu làm ít hơn. Những gì các doanh nghiệp Bắc Âu làm là tập trung vào kinh doanh – bao gồm các cuộc đàm phán thiện chí với các công đoàn của họ – trong khi để công dân bỏ phiếu cho các chính trị gia sử dụng chính phủ để cung cấp một bộ dịch vụ công phổ thông thiết thực.
Trên thực tế, điều này có thể gần với những gì mà phần lớn người dân Mỹ thực sự muốn, ít nhất là theo một cuộc thăm dò do Trung tâm nghiên cứu Pew công bố năm nay[21]. Những người được hỏi cho rằng chính phủ Mỹ nên chi nhiều hơn cho chăm sóc sức khỏe và giáo dục, ví dụ, để cải thiện chất lượng cuộc sống cho các thế hệ tương lai.
Nhưng cuộc thăm dò cũng tiết lộ rằng người Mỹ cảm thấy bi quan sâu sắc về tương lai của quốc gia và sợ rằng xung đột chính trị tồi tệ hơn đang đến. Một số nhà phân tích và sử gia quân sự đồng ý và đánh cược rằng rất dễ nổ ra một cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ.
Lúc này có thể là một thời điểm thích hợp để các nhà tư bản Mỹ dừng lại và tự hỏi loại tính toán lợi ích chi phí dài hạn nào có ý nghĩa nhất. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp tập trung vào trò chơi dài có thể làm điều tồi tệ hơn nhiều so với bắt đầu một chuyến đi thực tế đến Phần Lan.
Ở Helsinki, gia đình chúng tôi đang đối mặt với mùa đông Bắc Âu thứ hai của mình với cái tối đáng sợ mà nó mang lại. Bạn bè Phần Lan của chúng tôi tiếp tục hỏi làm thế nào chúng tôi trải qua lần đầu tiên và liệu chúng tôi có thể vượt qua lần khác. Câu trả lời của chúng tôi luôn giống nhau. Khi chúng tôi đưa cô con gái 2 tuổi của mình trên xe đẩy trẻ con qua những con đường đóng băng, ảm đạm đến nhà trẻ tuyệt vời, giá cả phải chăng hay đến trung tâm chăm sóc sức khỏe trẻ em thân thiện, chuyên nghiệp và hoàn toàn miễn phí, trước khi đi làm trong một nền kinh tế sáng tạo, nơi đại đa số mọi người có chất lượng cuộc sống khấm khá, mùa đông không quan trọng một chút nào. Nó thực sự có thể làm cho bạn hạnh phúc.
Nguồn: Finland Is a Capitalist Paradise, New York Times 7-12-19
_____
[5] https://www.worldbank.org/content/dam/doingBusiness/media/Annual-Reports/English/DB2019-report_web-version.pdf
[6] https://www.worldbank.org/en/topic/poverty/publication/fair-progress-economic-mobility-across-generations-around-the-world
[10] https://www.credit-suisse.com/about-us-news/en/articles/news-and-expertise/credit-suisse-yearbook-2017-201704.html
[14] https://www.cnbc.com/2019/02/25/warren-buffett-and-bill-gates-the-rich-should-pay-higher-taxes.html
[15] https://www.cnbc.com/2019/01/16/bridgewaters-ray-dalio-capitalism-is-not-working-for-most-people.html
[17] https://www.ft.com/content/5a8ab27e-d470-11e9-8367-807ebd53ab77?segmentId=04966486-48b5-4fa9-9be6-8dceb601aaeb
[18] https://www.theguardian.com/business/2019/aug/19/leading-us-bosses-group-drops-principle-of-shareholder-first
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét