I. Đại cương.
Từ khi
việc giao-tiếp giữa các dân-tộc phát-triển, con người đi gần lại với
nhau hơn. Từ đó, có sự trao đổi các thành quả, các kinh-nghiệm sống đến
những sáng-kiến, các phát-minh để học hỏi, bổ-sung đã giúp cho nhân-loại
tiến-bộ như ngày nay. Một trong những phương cách trong giao tiếp
quan-trọng là chữ viết, một phương-tiện ghi lại các trao đổi. Với việc
chuyển dịch các văn bản từ ngôn ngữ nầy qua ngôn ngữ khác được gọi là
phiên dịch. Bên cạnh đó, khi con người giao tiếp với nhau mà không cùng
ngôn ngữ, khi đó cần có người biết cả hai ngôn ngữ để chuyển dịch lại,
để hai người khác tiếng nói hiểu nhau, người đó gọi là thông dịch viên.
Trong đề tài nầy, chúng ta thử nói đến việc thông dịch, phiên dịch cùng
với những giai thoại đáng nói của việc làm nầy.
II. Nhiệm vụ khó khăn của các thông dịch viên.
Đối
với việc thông dịch (translate) cho các yếu nhân trong các cuộc họp,
các cuộc đối thoại, những cuộc họp báo hai bên, v.v…, nhiệm vụ của người
thông dịch rất cần thiết. Trong các cuộc đối thoại của các nhân vật
đứng đầu chính phủ, phiên dịch là một việc làm vô cùng khó khăn cho các
thông dịch viên (translator). Họ là người bắt nhịp cầu trong sự liên hệ,
đóng vai trò không thể thiếu khi các yếu nhân không biết trôi chảy ngôn
ngữ của nhau. Nhiệm vụ có vẻ đơn giản nhưng không phải như vậy. Chỉ cần
một sai lầm, một sự thiếu nhạy cảm, thiếu kinh nghiệm, một sơ sót
nhỏ...của thông dịch viên là có thể biến cuộc đối thoại không dẫn đến
kết quả mong muốn, đôi khi đi ngược lại ý nghĩ của người đã nói ra.
Trong đối thọai, một câu nói kèm theo nụ cười, một cái bỉu môi, một cử
chỉ lắc đầu v.v… thì những sai lầm của người thông dịch có thể biến nụ
cười hay các cử chỉ khác trở thành “hăm dọa”; một sai lầm nhỏ đôi khi có
thể làm thay đổi cả cục diện thế giới. Mọi người đều biết rằng các “ông
lớn” thường hay có giọng điệu “kẻ cả” nhất là trong bàn cãi hay khi họ
hiểu sai ý đối phương. Nhiều khi trong cơn giận dữ, họ không còn giữ
được bình tĩnh khi sử dụng ngôn từ, cho dù họ biết họ đang nói chuyện
với người nào. Do vậy, người dịch phải biết khéo léo, tế nhị, nhún
nhường. Thông dịch viên có thể chuyển đạt từ lời “khen” thành “đe dọa”,
hay “chê bai”; hoặc từ quan điểm “mềm dẻo, nhân nhượng” thành “cứng
rắn”. Nếu họ biết “hạ giọng” của câu nói, biết bỏ qua chữ “không” hay
nói trái đi một chút thì có thể dẫn cuộc đàm thoại, đối thoại đi đến chỗ
tốt đẹp.
III. Những tình huống, giai thoại đáng chú ý.
1. Radio BBC:
Trong chương trình “Breaking The League Barrier” do James Robbins đảm
trách trên kênh Radio của đài BBC, một số thông dịch viên nổi tiếng đã
kể lại những buồn vui, những khó khăn, các giai thoại trong cuộc đời làm
nghề thông dịch của họ cho các lãnh đạo quốc gia. Họ thú nhận đôi khi
họ cố tình không dịch chữ “không” vì biết tầm nguy hại của từ ngữ nầy.
Đôi khi vì vậy, sau đó họ đã nhận lỗi. Thật tế, không có bằng chứng nào
cho thấy lịch sử thay đổi do thông dịch nhưng không có nghĩa là ảnh
hưởng do họ gây nên không lớn. Xin nêu vài trường hợp đáng nói.
2. Các lãnh đạo có cá tính gây khó cho người thông dịch:
Lịch sử cận đại ghi nhận, trong các yếu nhân thế giới, Nikita
Sergeyevich Khrushchev, người được mệnh danh là “con cáo già Cộng sản”,
được kể là người nóng nảy, vui buồn bất chợt, đôi khi có những cử chỉ và
lời nói thô lỗ nhất, đã từng “làm khổ” nhiều thông dịch viên khi họ làm
nhiệm vụ. Điển hình, trong cuộc họp thượng đỉnh Paris năm 1960 giữa
Tổng thống Mỹ Dwight David Eisenhower và Thủ tướng Nga Nikita
Sergeyevich Khrushchev. Những ngôn từ của Khrushchev đã gây cho thông
dịch viên nhiều bối rối, phải dứt quãng nhiều lần để tìm từ ngữ thích
hợp cho từng tình huống. Giận dữ do việc máy bay U-2 của Mỹ dọ thám đất
Nga mới bị bắn hạ, vừa vào cuộc họp, Nikita S. Khrushchev dùng những từ
ngữ nặng nề, cứng rắn, to tiếng dần đến độ chửi rủa… Ông không cần dành
thì giờ cho thông dịch viên chuyễn ngữ, không cần biết những người khác
có nghe ông ta nói hay không,… rồi ông ta bỏ ngang cuộc họp ra về. Ông
ta đã quen với thói tính hung hăng, với những hành động mà người ta
thường thấy nơi ông ta tại các cuộc họp ở Hội-đồng Tối-cao Xô-viết, với
những bài diễn văn dài lê thê từ 3 đến 4 tiếng đồng hồ mới dứt. Những từ
ngữ đầy giận dữ lần nầy của ông đã gây nhiều khó khăn cho người chuyển
ngữ trong một hội đàm mà thông dịch viên biết trước sẽ rất cam go do
những biến cố mới xảy ra trước đó nhưng vẫn bị lúng túng, không làm tròn
nhiệm-vụ.
3. Những khó khăn mà người thông dịch gặp phải:Theo
ông Igor Korchilov, thông dịch viên người Nga, người từng phục vụ cho
các lãnh đạo Nga từ thời Nikita S. Khrushchev đến Gorbachev, đã kể lại
cuộc gặp gỡ giữa Mikhail Gorbachev và George Herbert Walker Bush trong
thời gian chiến tranh lạnh sắp chấm dứt. Hai ông thảo luận về vấn đề
việc thành lập “Ủy ban Kiểm soát Vũ khí” của hai khối. Khi thảo luận đến
chỗ “kiểm soát” thì bị bế-tắc. Vấn đề được đặt ra: “máy bay bên nào
được phép bay trên lãnh thổ phía kia để “kiểm soát” việc tuân thủ, thi
hành hiệp ước?”. Cuộc tranh luận chú trọng đến hai chữ “kiểm soát” và
“bị kiểm soát”.
Sau khi Mikhail Gorbachev nói,
Igor Korchilov dịch lại cho Tổng thống Bush nghe. Sau khi nghe, ông Bush
yêu cầu Gorbachev lặp lại lời vừa nói. Và sau khi nghe lời của thông
dịch viên lời nói của ông Bush, lần nầy, Gorbachev nói ngược lại ý lần
nói trước. Về việc nầy, Igor Korchilov kể lại: “Gorbachev không phát âm
rõ ràng âm cuối của một trong hai từ ngữ vốn rất quan trọng trong văn
cảnh khi đó. Ông ta nói một từ Nga mà tôi nghe thành phía “kiểm soát”,
và dĩ nhiên đi ngược lại quan điểm của phía Nga”. Và ông ta thêm: “Ngoại
trưởng James Baker và Tổng thống Bush tỏ ra ngờ vực. Họ nhìn tôi và có
vẻ thích thú khi Gorbachev thay đổi quan điểm. Nhưng để cho chắc, họ (TT
Bush và Bộ trưởng James Baker) yêu cầu Gorbachev nhắc lại điều vừa
nói”. Khi tôi dịch ngược lại tiếng Nga, Gorbachev nói: “Không, tôi không
nói thế. Tôi nói phía “bị kiểm soát” phải được quyền cung cấp phi cơ
chứ không phải phía đi “kiểm soát”. “Sau cuộc họp, tôi gặp TT Bush để
xin lỗi. Ông ấy (TT Bush) chăm chú nghe tôi giải thích rồi nói: “Chà, đó
là tin xấu!”. “Nhưng đừng lo. Tin tốt là ông đã không tạo ra Thế chiến
thứ ba”.
4. Chuyện thông dịch cho Margaret Thatcher: Là
một người đàn bà nhưng ngôn ngữ của bà ta rất cứng rắn nên từng mệnh
danh “người đàn bà thép” (iron lady), nhất là các cuộc đối thoại liên
quan đến chính trị, quân sự, v.v… mà các vấn đề đó đi ngược lại quan
điểm về chính trị và lập trường của bà, hay là của đảng do bà lãnh đạo.
Ông Charles Powell, cố vấn ngoại giao của bà Thủ Tướng kể lại một giai
thoại, trong đó, một câu nói đã đặt thông dịch viên vào chỗ khó xử vô
cùng. Ông Charles Powell kể:
-“Một lần, Bộ Ngoại
giao Anh yêu cầu văn phòng Thủ Tướng nên gặp Tổng Thống Congo (một quốc
gia Phi Châu). Ông ta là một người nổi tiếng tin theo Cộng-sản, là một
nhà Marxist. Vị đại diện Bộ Ngoại Giao Anh gặp đại diện Tổng thống Congo
và nhận được yêu cầu TT Congo xin gặp mặt Thủ tướng Thatcher. Sau nhiều
nài nỉ, bà miễn cưỡng đồng ý gặp ông ấy (TT Congo)”. “Vị Tổng thống
được đưa đến văn phòng bà Thủ Tướng. Sau khi chào hỏi qua loa, ông ngồi
xuống đối diện với bà Thatcher. Bà Thủ tướng nghiêng mình tới, với cái
nhìn ác cảm, bà nói: “Tôi ghét những người Cộng sản!”. Người thông dịch
tiếng Pháp trông thật tội nghiệp, khá là bị sốc, đã dịch thành “Thủ
Tướng Thatcher nói bà không hoàn toàn ủng hộ tư tưởng của Kark Mark”.
Tôi nghĩ đó là một cố gắng dũng cảm trong hoàn cảnh ấy”. Trong suốt cuộc
diện kiến ấy, vị TT da đen nhận được những cái nhìn và cử chỉ không
bình thường mà vị nguyên thủ chủ nhà dành cho mình. Còn người thông
ngôn, phải cố gắng tối đa trong việc vận dụng khả năng của mình để dịch
“trại” đi nguyên nghĩa của các ngôn từ mà bà Thủ Tướng thép đã dùng
trong cuộc diện đàm ấy. Biết được tánh khí của vị nữ Thủ Tướng của
mình, chính phủ Anh thường phải chọn lựa các thông dịch viên cừ-khôi
nhất của Anh quốc (cho nhiều ngoại ngữ) để làm nhiệm vụ nầy và dĩ nhiện
họ phải cố gắng tối đa và nhạy bén để cố gắng làm tròn nhiệm vụ.
5. Chuyện thông dịch của người Mỹ gốc Việt.
Trong
chuyến viếng thăm Việt Nam vào tháng 11-2000 của vị tonton “mèo chuột”
Bill Clinton, một tay trốn lính nhưng lại là “Tổng Tư Lệnh quân đội Mỹ”,
rắc rối đã xảy ra liên quan đến chuyện thông dịch. Seam Lâm, một người
sinh tại Việt Nam và đã nhập quốc tịch Mỹ, được nội các Clinton chọn là
thông dịch viên cho tổng thống trong chuyến Việt du. Khi được chọn, Lâm
biết đó là một nhiệm vụ quan trọng khi tổng thống Mỹ sẽ nói chuyện trước
người khác ngôn ngữ. Sau buổi dịch bài nói chuyện tại trường Đại Học
Quốc gia Hà Nội của Bill Clinton vào ngày 17-11-2000, hôm sau, Sean Lâm
bị ông Sandy Berger, cố vấn an ninh Quốc gia của Clinton đuổi việc.
Theo
chương trình, buổi nói chuyện của Bill mà người nghe là “sinh viên Hà
Nội”, khoảng 400 người, thực chất đại đa số là cán bộ và công an, cởi
“đồ lớn” và “áo vàng” ra để đóng bộ đồ sinh viên vào rồi đến dự. Các cô
cậu “sinh viên bắt buộc” nầy được “học tập” kỹ đến độ thuộc lòng lời
“đảng dạy”: không được vỗ tay bậy bạ, chỉ được vỗ tay 2 lần – một lần
trước và một lần sau khi Bill chấm dứt; phải “tuyệt đối” vỗ tay ngắn hơn
bài đáp từ của đại diện nhà trường để “giữ lập trường, quan điểm của
cách mạng và làm sáng tỏ chính nghĩa của đảng quang vinh”.
Thấy
hội trường loe ngoe vài trăm mạng, Bill yêu cầu bắt loa ra ngoài cho
nhiều người khác nghe: Hà Nội lại lắc đầu. Trước khi bắt đầu buổi nói
chuyện, Hà Nội yêu cầu phía Mỹ đưa bài diễn văn của Clinton cho “trên”
(bộ sậu ở Bắc Bộ phủ) duyệt trước, cho dù đại sứ Mỹ tại Việt Nam ra sức
hứa hẹn là “không có gì đáng quan ngại”. Cái gì thì cái, “nhập gia” phải
“tùy tục” cho qua truông, bài nói chuyện đã đến tay chính quyền trước
giờ Clinton đăng đàn. Trong bài diễn văn, đầu tiên, Bill nghiêng đầu làm
duyên nhắc đến cái huy chương Bạc môn Thái Cực đạo mà lực sĩ VN kiếm
được ở Sydney trước đó để “lấy điểm” với Việt Cộng. Kế đến, Bill khéo
léo nhắc đến chuyện người T.T. tiền nhiệm là Jefferson đã từng xin lúa
của Việt-Nam để về trồng tại Virginia – nhưng chưa thấy báo chí, tin
tức, tài liệu nào nói về chuyện nầy trước đó - làm “người nghe” - được khen “sướng tê người, sướng rên mé đìu hiu” mà không được
phép vỗ tay vì đã “thuộc bài” về chuyện vỗ tay rồi.
Bài
diễn văn của Clinton đúng là “không có gì” như lời cam kết của tay đại
sứ Mỹ tại VN, ngoài một đoạn nói về nhân quyền mà Bill đã nói “lạc
điệu”, làm nảy sinh rắc rối. Clinton hứng chí một cách “không bài bản”,
điều nầy làm cho Lâm Sean không biết đâu mà dịch, dẫn đến chuyện tréo
cẳng ngỗng giữa diễn giả và người dịch. Nội vụ, theo tin AP đã đưa sau
đó, một viên chức ngoại giao trong phái đoàn Mỹ cho biết như sau:
“Lâm
đã nghiền ngẫm và yên tâm với bài diễn văn của Bill đã được đưa trước.
Trở ngại bắt đầu khi Lâm được trao bản mới sửa đổi vài phút trước khi
đăng đàn, tuy rằng có thêm một thông dịch viên khác là Thanh Vương,
người đứng cạnh bên quầy thông ngôn, có nhiệm vụ nhắc Lâm những chỗ mới
sửa lại khác với bản cũ. Vào giữa bài nói chuyện, một phụ tá trong phái
đoàn của T.T. Clinton ra lệnh cho Thanh Vương rời vị trí để giúp Bill
Clinton trao đổi những mẩu chuyện nhỏ với thính giả sau buổi nói chuyện.
Cùng lúc đó, đám ký giả đồng lúc ùa vào quầy thông dịch, nơi Lâm đang
đứng để làm nhiệm vụ, gây ồn ào, âm thanh vang ra to, vì hội trường
không có vách ngăn tiếng động, làm cho Lâm mất tập trung, bối rối, không
biết đâu mà dịch. Chính vì thế, có ít nhất 3 cú điện thoại gọi vào Tòa
Đại sứ Mỹ than phiền về bản dịch.
Tại hội trường,
một số người gỡ bỏ headset (mang headset để nghe lời thông dịch từ Anh
ngữ sang Việt ngữ của Lâm Sean) để nghe Clinton nói bằng Anh ngữ, cho dù
họ không hiểu bao nhiêu (vì đa số là “sinh viên dỏm”). Rồi chính
Clinton tạo thêm khó khăn nữa khi tăng tốc độ nói mà không dừng lại từng
đoạn văn để chờ thông dịch như thông thường các diễn giả hay làm, khi
Clinton nói về nhân quyền. Lại nữa, tất cả ngôn từ ông ta dùng không hề
có trong bản văn sơ thảo được đưa cho Lâm trước đó. Ngay cả ý chính của
ông ta cũng không mạch lạc”.
Cũng theo viên chức
ngoại giao Mỹ này: “Thêm vào đó, âm giọng người miền Nam của Lâm một
phần cũng tạo “khó nghe” cho thính giả mà đa số là người miền Bắc, nên
đã tăng thêm than phiền cho lời dịch của Lâm”. Những nguyên-do
khách-quan trong vụ nầy không hoàn toàn do Lâm (bị một số người cho là
“dịch… vật”) mà phần nào do chính Clinton và nhóm tùy tùng gây nên. Theo
AP, lâu nay, trong các bài phát biểu ngoại giao, không riêng cho bất cứ
quốc gia nào, mà cần có chuyển ngữ, bản văn đó cần đưa ra trước với
nhiều thời gian hơn cho người thông dịch nghiên cứu trước và nhất là
tránh sửa đổi nhiều, nếu thấy không cần thiết. Tiếc thay, phái đoàn
Clinton đã không làm được điều này. Thế là mọi lỗi lầm đổ cho Lâm, “trăm
dâu đổ vào đầu tằm” như lâu nay vẫn thế. Lâm Sean là người chịu trận.
Ngay sau đó, khi được hỏi, thông dịch viên Lâm, đã than: “Đó là một kinh
nghiệm kinh hoàng” (It was a terrifying experience), từ ngữ nguyên văn
của Lâm mà AP đã đưa tin).
Nhân đây, xin nói thêm
một chút về chuyến Việt du của Clinton, chuyến đi mà anh hề James
Douglas Muir Leno của hãng truyền thông NBC của Mỹ nói là “Clinton sang
VN trễ mất… 30 năm” (ý nói đến việc Bill trốn quân dịch, không chịu sang
VN chiến đấu khi Clinton còn đi học cách đó 30 năm trước). Đầu tiên là
việc Clinton “đòi đi tàu chiến Mỹ” vào. Chính quyền VC chơi trò Cống
Quỳnh, muốn “làm nhục Mỹ”, đưa điều kiện: “tàu Mỹ phải cưa cột cờ Mỹ
trên tàu chiến cho thấp hơn cờ VC trên tàu”. Hải Quân Mỹ đời nào chịu
vậy, vì theo truyền thống Hải Quân Mỹ, cột cờ của Mỹ phải cao nhất.
Thế
là Bill phải đi Air Force One (AF1). Rồi giờ giấc mà Bắc Bộ Phủ (BBP)
buộc AF1 đáp xuống Hà Nội và Sài Gòn phải là canh khuya hiu hắt với lý
do: “để đảm bảo an ninh” (sic). Hà Nội sợ nếu đến ban ngày, có thể dân
chúng tự động vác cờ hoa đi đón chàng Bill đông quá, có thể đông hơn khi
đón Giang Trạch Dân, sẽ làm “mất mặt” đàn anh vĩ đại láng giềng, cho dù
“môi hở răng lạnh”. Hà Nội còn sợ lợi dụng lúc đông đảo, các “thế lực
thù địch” hô hào, hét lên đòi “diễn biến hòa bình” thì khốn. Mà AF1 đáp
vào canh khuya xuống cái phi đạo tối thui, ngắn cũn cỡn như cái
mini-jupe của em thực tập sinh Monica Samille Lewinsky, chắc sẽ làm cho
Bill sợ “teo bu-gi”, như trong lần trước ống kính của báo chí Mỹ mà Bill
phải trả lời về vụ “tập cho em Monica thổi kèn đồng” dạo nào).
Theo
chương trình, Bill sẽ gặp Võ Nguyên Giáp nhưng giờ chót, Hà Nội lờ đi,
không cho gặp. Bill muốn đọc diễn văn trước Quốc hội Việt Cộng nhưng
cũng bị BBP lắc đầu. Bài diễn văn của Clinton dài 3.300 chữ, khi chấm
dứt, Bill xin cho 30 phút hỏi đáp nhưng ông ta chỉ nhận được lời từ-chối
thẳng thừng. Nhiều người cho rằng “câu trả lời không” của Hà Nội có thể
là điều may-mắn cho Bill: “Lỡ có ai đó đứng lên hỏi thẻ “trưng binh”
(thẻ quân dịch) của ông ta thì “chàng Bill” chỉ có nước… độn thổ”.
Tưởng
cũng cần biết thêm, trong bài phát biểu của Clinton khi khen VN “diệt”
được nạn “suy dinh dưỡng” và đã “tiến lên hàng thứ nhì về xuất cảng
gạo”; người ta không hiểu vô tình hay cố ý, câu nói đó được xem là một
đòn độc, đã “chơi” Hà Nội sát ván. Vào tháng 12-2000, chưa được một
tháng sau ngày Bill đến VN, Tổ Chức Lương Nông Thế Giới (World Food
Programme, WFP) quyết định cúp “viện trợ lương thực” cho VN như họ đã
từng làm. Trong 25 năm trước đó, họ đã “bỏ ra 500 triệu USD hàng năm để
mua gạo… do VN xuất cảng để mà… cứu đói cho dân VN”. Quả là trò hề của
một tổ chức thế giới!
Nhắc đến “chàng Bill” mà
không nhắc đến Monicagate với nhiều kỷ lục, quả là điều thiếu sót. Báo
chí đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để nói về đề tài này và nhiều
người đã biết. Ở đây, chỉ nhắc lại vài “kỷ lục” để độc giả biết thêm về
việc nữ ký giả nổi tiếng Barbara Walters của hệ thống truyền hình ABC
(của Mỹ) thực hiện cuộc phỏng vấn Monica Lewinsky trong chương trình đặc
biệt “20/20” vào tối ngày 3-3-1999, trong suốt 2 giờ đồng hồ.
Trả
lời Walters trong cuộc phỏng vấn kỷ lục nầy, Monica mô tả Bill Clinton
như là “một người rất dâm dục”, người hiện nay đang “chiến đấu chống lại
tính dâm dục của mình”. Monica còn nói: “Bill Clinton đã tuyên thệ láo”
(Clinton lied under Oath)” và “Anh ấy rất quyến luyến và âu-yếm tôi,
làm cho tôi cảm thấy tha-thiết ràng buộc”, và “Tôi sẽ không bao giờ dám
liên-hệ (tiếng Việt phải dịch là “lén-phéng” mới sát nghĩa với vụ nầy)
với một người đàn ông có vợ nữa”. Đây là một chương trình phỏng vấn có
đến 70 triệu người theo dõi, nhờ đó, ngày hôm sau, cuốn tự truyện của
Monica “bán chạy như tôm tươi”. Đài ABC cũng hốt được bộn bạc, với 35
triệu Mỹ kim tiền quảng cáo chỉ nhờ riêng vào chương trình phỏng vấn
nầy.
Theo Viện Nielson Media Research cho biết,
chương trình phỏng vấn nầy chiếm đến 47% thị trường quảng cáo ngày hôm
đó của tất cả các hệ thống truyền thông Mỹ (truyền thanh, truyền hình),
đứng hạng nhì, chỉ thua cuộc phỏng vấn ca sĩ Michael Jackson do
Oprah Winfrey thực hiện năm 1993, chiếm 56% thị trường quảng cáo mà
thôi. Monica còn cho đài truyền hình Channel-4 của Anh quốc thực hiện
cuộc phỏng vấn khác và ẳm thêm $600.000 đồng thù lao, rồi Channel-4 bán
lại bản quyền lại cho 32 nước khác chiếu lại sau đó, mang lại cho
Channel-4 món lời khá lớn.
Ba tháng sau vụ tai
tiếng Monicagate nầy, lại một kỷ lục khác: trên hệ thống internet toàn
cầu có đến 1,3 triệu websites liên quan đến vụ nầy, với nhiều tài liệu,
hình ảnh, đồ chơi… “ăn theo”. Ngoài ra, kỹ nghệ sản xuất cũng không bỏ
lỡ cơ-hội. Họ chế tạo các mặt hàng từ “khôi hài vô hại” (ví dụ máy chơi
game Video, người chơi bấm nút điều khiển đưa hình người giống Monica đi
từ tòa nhà Watergate đến văn phòng bầu dục của Clinton) đến “tục tĩu”
(như búp bê biết ngâm thơ của Whitman, mang trên ngực áo chữ “intern” –
tập sự). Sự kiện nguy hiểm đến độ đảng Dân Chủ phải “dựng” nên tổ chức
Patriotic Profits (PP) với mục đích “bảo vệ uy-thế của Tổng Thống”, cổ
động các nhà sản xuất đừng tạo các sản phẩm làm giảm uy tín của vị tông
tông của họ. Theo bà Hozell (giám đốc PP) cho biết, vụ Monica là: “Món
lợi từ trên Trời rơi xuống cho các nhà sản xuất đồ chơi nhưng chỉ mong
chọ làm ăn đứng đắn”. Bà ta nói: “Chúng tôi không phủ nhận quyền kiếm
tiền của họ, vì thế nên chúng tôi đề nghị với những nhà sáng chế tìm các
giải pháp thay thế vừa có lợi cho họ vừa tôn trọng được chức vụ Tổng
thống”.
Tuy nhiên, khó mà ngăn cản những ý tưởng
“càng khôi hài càng kiếm được nhiều tiền”. Ông Clay Resin - chuyên viên
tài chính đặc trách “Nghiên cứu Thị trường Những sản phẩm Sưu tập” cho
biết: “Việc buôn bán liên quan đến vụ này có thể lên đến 80 triệu USD,
gấp 5 lần các sản phẩm của chiến tranh vùng Vịnh và 15 lần vụ Watergate.
Rất khó ngăn cản họ, nhất là các tay chuyên sản xuất những sản phẩm
quái dị để câu khách”. Quả vậy, sau đó, Joel Carni, chủ nhân của hãng
Four Aces tung ra thị trường sản phẩm mang tên “Monicondom”, với lời
quảng cáo xỏ xiên Clinton như sau: “Bao cao su này mỏng hơn, đặc biệt để
dùng cho chuyện “thổi kèn tình dục”, một hành động mà người ta không
chịu phòng ngừa”. Trên hộp bao, còn có câu quảng cáo rằng người sử dụng
bao Moni sẽ: “Biến vụ tai tiếng của Bạch Cung thành dịch vụ công cộng
nhằm cổ động cho chuyện an toàn tình dục”.
Trở lại
đề tài, các trường hợp điển hình đã được nêu ra trên đây cho thấy những
khó khăn trong việc chuyển ngữ ở tất cả mọi trường hợp, mà quan trọng
nhất là các cuộc hòa đàm chính trị. Điều đó cho thấy tầm quan trọng
trong nhiệm vụ phiên dịch. Ta hãy xem tiếp các sai lầm tai hại của thông
dịch đã từng xảy ra trong biên niên sử của “nghề” nầy.
4. Sự thật về lời hăm “We will burry you” của Khrushchev.
Xưa
nay, nhiều người hiểu lầm câu “Chúng tôi sẽ chôn vùi các ông” (We will
bury you) là nguyên văn lời của Thủ Tướng Nga Nikita Sergeyevich
Khrushchev hăm dọa phương Tây (mà Mỹ là mục tiêu chính), bằng vũ khí hạt
nhân. Sự hiểu lầm “chết người” nầy ngay thời đó được báo chí đăng tràn
ngập, gây ra nỗi ám ảnh bị Nga tấn công hạt nhân trong tâm trí người Mỹ,
làm băng giá thêm quan hệ giữa Nga và Âu Mỹ. Sự thật, vào ngày
18-11-1956, trong một cuộc tiếp tân tại Sứ quán Ba Lan tại Moscow, trước
nhiều vị Đại sứ phương Tây hiện diện, thủ tướng Nga Nikita Khrushchev
có nói bằng tiếng Nga gần sát với nội dung “Bất kể các ông có thích hay
không thì lịch sử vẫn đứng về phía chúng tôi. Chúng tôi sẽ đào hố cho
các ông” (Whether you like it or not, history is on our side. We will
dig you in). Tiếc thay, người thông dịch riêng, đệ tử ruột của
Khrushchev là Viktor Sukhodrev lại dịch sang Anh ngữ thành “we will bury
you” và đã làm dấy lên nỗi lo ngại lớn ngay lúc đó và nhiều năm sau
nầy. Trong khi cuộc chạy đua vũ trang đang diễn ra khốc liệt, báo chí
phương Tây lập tức coi đấy là lời đe dọa trực tiếp, nhưng phía Liên Xô
vội vã tuyên bố rằng người ta đã hiểu lầm Khrushchev và lời nói của ông
đã bị tách ra khỏi ngữ cảnh.
Từ lâu, người Cộng
sản luôn chủ quan nghĩ rằng chủ nghĩa Cộng sản sẽ tồn tại lâu hơn chủ
nghĩa Tư bản. Nikita Sergeyevich Khrushchev là một người Cộng sản chính
thống thì thuộc lòng lý thuyết Karl Marx, lấy một ý trong Tư Bản luận
của Karl Marx: “Do đó, hơn hết, những gì mà giai cấp tư bản làm sẽ là tự
đào mồ chôn mình” (What the bourgeoisie therefore produces, above all,
are its own grave-diggers) nói trước đám đông như để “ban huấn từ” với
mọi người mà ông đánh giá thấp địa vị của họ so với mình, ông ta dùng
những lời lẽ không thích hợp cùng với cử chỉ thiếu nhã nhặn trong một
bối cảnh cử tọa là những nhà ngoại giao chuyên nghiệp hiện diện lúc đó,
thành ra như một lời hăm dọa, thách thức. Để biện minh cho việc nầy,
trong lần tuyên bố tại Tiệp Khắc (Yugoslavia) vào ngày 24-8-1963, ông ta
nói: “Tôi từng nói “Chúng tôi sẽ chôn vùi các ông”, và tôi đã gặp rắc
rối to. Tất nhiên là chúng tôi sẽ không dùng xẻng chôn xác các ông.
Chính tầng lớp lao động của các ông [̉ở các nước tư bản] sẽ chôn vùi
các ông”. (“I once said, “We will bury you”, and I got into trouble with
it. Of course we will not bury you with a shovel. Your own working
class will bury you". Dĩ nhiên phần thiệt thuộc về ông. Thái độ khiếm
nhã trong ông tồn tại suốt thời gian ông tại vị.
Sau
nầy, theo dự trù, một cuộc họp thượng đỉnh giữa hai nhà lãnh tụ Nga Mỹ
sẽ được tổ chức tại Paris vào ngày 16-5-1960 nhưng khi một do-thám-cơ
U-2 của CIA rơi trên đất Nga vào ngày 01-5-1960 đã làm cho Nikita
Khrushchev nổi giận. Ngay trong buổi hội-nghị sơ-bộ đầu tiên trước cuộc
họp thượng đỉnh, vừa vào cuộc, Khrushchev dùng những từ ngữ nặng nề,
cứng rắn, to tiếng dần đến độ chửi rủa… chỉ trích Mỹ và T.T. Eisenhower,
không cần dành thì giờ cho người thông dịch chuyễn ngữ, không cần biết
người khác có nghe ông ta nói hay không,… rồi ông ta bỏ ngang cuộc họp
ra về. Khrushchev đã quen tính với những hành động côn đồ khiếm nhã
người ta thường thấy nơi ông tại các cuộc họp ở Hội-đồng Tối-cao Xô-viết
ở Nga, với những bài diễn văn dài lê thê từ 3 đến 4 tiếng đồng hồ mới
dứt. Những từ ngữ đầy giận dữ lần họp sơ bộ nầy của ông đã gây nhiều khó
khăn cho người chuyển ngữ - dù là người quen thuộc với tính tình của
ông - trong một hội đàm mà thông dịch viên biết trước sẽ rất cam go do
những biến cố mới xảy ra trước đó nhưng vẫn bị lúng túng, không làm tròn
nhiệm-vụ do bối rối trước cử chỉ, giọng nói, thái độ của ông ta khi
đang nóng giận. Trước khi trở về Nga, ông còn chủ-tọa một cuộc họp-báo
với toàn những lời chửi-rủa và đập bàn ầm-ỉ. Lịch sử cận đại ghi nhận
trong các yếu nhân thế giới, Nikita Sergeyevich Khrushchev, người được
mệnh danh là “con cáo già Cộng sản”, được kể là người nóng nảy, vui buồn
bất chợt, đôi khi có những cử chỉ và lời nói thô lỗ nhất, đã từng “làm
khổ” nhiều thông dịch viên khi làm nhiệm vụ.
5. Dùng từ ngữ không chính xác dẫn đến bị bom nguyên tử.
Thế
chiến thứ hai đang đến hồi khốc liệt nhất, cuộc chiến sắp đi đến những
quyết định cuối cùng do phe đồng minh định đoạt. Ngày 26-7-1945, các
nước đồng minh công bố Tuyên ngôn Potsdam, ghi rõ những điều kiện đầu
hàng của Đế quốc Nhật Bản. Bảng tuyên bố nhấn mạnh rằng nếu từ chối đầu
hàng, nước này sẽ bị “hủy diệt nhanh chóng và hoàn toàn”. Tuyên ngôn nầy
cũng là tối hậu thư gởi đến chính phủ Nhật. Sau khi nhận được, Thủ
tướng Nhật Bản Suzuki Kantaro tổ chức họp báo và sau đó tuyên bố: “Không
bình luận. Chúng tôi đang tiếp tục suy nghĩ”. Tuy nhiên đại diện của
các nước Đồng minh đã hiểu lời nói ông theo cách khác từ cách dùng chữ.
Suzuki đã mắc sai lầm khi sử dụng từ ngữ “mokusatsu”, có nghĩa là “không
bình luận” mà cũng có nghĩa “chúng tôi bác bỏ”. Chỉ 10 ngày sau buổi
họp báo, Tổng thống Truman giải thích với thế giới thế nào là “hủy diệt
nhanh chóng và hoàn toàn” bằng hành động, là 2 quả bom nguyên tử. Đây là
sai lầm to lớn không thể tha thứ của chính phủ của Thủ Tướng Suzuki
Kantaro: trong các văn bản ngoại giao, tuyệt đối tránh dùng những thuật
ngữ chính trị có 2 nghĩa, nhất là 2 nghĩa trái ngược nhau, như trường
hợp nầy. Quyết định thả bom nguyên tử của Tổng Thống Truman, đến bây giờ
vẫn còn tranh cãi vì nó đã làm cho lịch sử thế giới thay đổi.
6. Dịch sai trong chuyến công du của Jimmy Carter.
Năm
1977, khi chuẩn bị cho chuyến thăm Ba Lan của tổng thống Jimmy Carter,
Bộ Ngoại giao Mỹ đã ký kết một hợp đồng với Steven Seymour, một người
phiên dịch nói tiếng Nga và biết cả tiếng Ba Lan, nhưng chưa bao giờ làm
việc theo lối chuyên nghiệp với ngôn ngữ này. Lúc đó Ba Lan đang nằm
trong khối xã hội chủ nghĩa và Carter đã cố gắng lấy lòng người dân Ba
Lan bằng cách đọc một bài diễn văn đầy tình hữu nghị. Ông Carter nói
“Tôi đến để nghe ý kiến và hiểu được các khát vọng về tương lai của
người Ba Lan” (I have come to learn your opinions and understand your
desires for the future) nhưng người phiên dịch, Steven Seymour lại dịch
sai bét thành “Tôi ham muốn thể xác người Ba Lan” (I desire the Poles
carnally). Ngoài ra, người phiên dịch này đã “làm nên lịch sử” với câu
của tổng thống “Tôi rời Hoa Kỳ vào sáng nay” được chuyển ngữ ra thành
“Tôi rời nước Mỹ và không bao giờ quay lại”. Ngay cả một câu nói trong
sáng với nội dung nói rằng ông Carter “rất vui được có mặt tại Ba Lan”
đã được dịch thành “ông cảm thấy hạnh phúc vì đã nhìn thấy những chỗ
kín của Ba Lan”. Khi ông Carter ca ngợi Hiến pháp Ba Lan năm 1791 là
một trong ba văn bản vĩ đại nhất vì nhân quyền, Steven Seymour nói với
cử tọa người Ba Lan rằng bản hiến pháp “thật đáng buồn cười”. Không
ngạc nhiên gì khi Seymour không còn làm nên tích sự gì nên phía Mỹ đã
nhanh chóng tìm một người khác thay thế, ông Jerzy Kryski, người từng
làm việc cho Sứ quán Hoa Kỳ ở Ba Lan. Thế nhưng sự thể vẫn chưa dứt,
còn khôi hài hơn. Sau khi Tổng thống Carter nâng ly tại quốc yến, khi
được mời phát biểu, Jimmy Carter nói câu đầu tiên rồi dừng lại một chút
chờ người phiên dịch làm việc nhưng bầu không khí vẫn hoàn toàn yên
lặng. Ông nói tiếp một câu nữa, và chờ, nhưng rồi vẫn như cũ, yên lặng
một cách bất thường. Cả hội trường ai nấy đều chờ đợi một cách ngạc
nhiên. Hóa ra người phiên dịch mới nầy do không hiểu phần tiếng Anh của
vị tổng thống nói gì nên đã quyết định “im lặng là vàng”. Cho đến hết
chuyến công du, ông Carter không nói gì thêm vì không ai hiểu Anh văn.
Đến khi chuyến công du của Tổng thống Carter kết thúc thì mọi tình huống
đều được thêu dệt để trở thành những câu chuyện “tiếu lâm tân thời” ở
Ba Lan cũng như nhiều nước khác, nhất là trong khối Cộng sản; trở thành
những chuyện khôi hài “chưa từng có” trong những sinh hoạt ngoại giao
thế giới trước đó. Cung cách làm việc của chính phủ thuộc đảng Dân Chủ
như thế đó.
7. Người phiên dịch đã “thêm thắt” lời của Shinzo Abe.
Chính
phủ Nhật đã khiển trách người phiên dịch vì đã “thêm thắt” phát ngôn
của Thủ tướng Shinzo Abe phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại
Davos (Thụy Sĩ) vào ngày 22.1.2014, về việc so sánh quan hệ Tàu cộng với
Nhật giống như quan hệ Anh với Đức trước khi xảy ra Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất. Trong phần phát biểu ông Abe (được dịch sang tiếng
Anh) nhắc đến chuyện chiến tranh thế giới thứ 1 đã bùng nổ vào năm 1914,
mặc cho quan hệ kinh tế vững chắc giữa Đức và Anh vào thời đó. “Tôi
nghĩ rằng Nhật và Trung Quốc đang trong tình huống tương tự. Chúng tôi
không muốn xung đột giữa hai quốc gia xảy ra”, đó là lời của ông Abe
được dịch “thêm” sang tiếng Anh. “Bộ Ngoại giao Nhật cho biết ông Abe
không hề đưa ra những câu phát ngôn kiểu “so sánh” kể trên tại buổi họp
báo và đã khiển trách người phiên dịch tự ý thêm thắt ý “so sánh” vào,
theo tin AFP ngày 3.2.2014 đã dẫn.
AFP thu thập
được bản ghi lại lời phát biểu của ông Abe bằng tiếng Nhật không hề hàm
chứa ý “so sánh” mặc dù ông Abe có nhắc đến chiến tranh thế giới thứ 1.
Theo bản ghi âm tiếng Nhật, khi được phóng viên hỏi liệu rằng Trung –
Nhật sẽ xảy ra chiến tranh, ông Abe trả lời: “Năm nay đánh dấu 100 năm
kể từ khi chiến tranh thế giới lần thứ 1 bùng nổ. Vào thời đó, Anh và
Đức có quan hệ kinh tế vững mạnh, nhưng hai nước đã xảy ra chiến tranh.
Tôi đề cập đến yếu tố lịch sử này như một lời bình luận thêm”. “Nếu một
điều gì đó giống như các bạn (phóng viên, PV) hỏi sẽ xảy ra (tức chiến
tranh xảy ra), nó sẽ gây ra tổn thất nghiêm trọng không những đối với
Trung Quốc và Nhật Bản mà cả thế giới. Chúng ta phải bảo đảm điều này
(chiến tranh Trung - Nhật, PV) sẽ không xảy ra”.
Câu
phát ngôn của Abe bị dịch “thêm thắt” sang tiếng Anh đã khiến cho Trung
Quốc giận dữ, theo AFP. Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Cộng Tần
Cương hôm 23.1.2014 đã lên tiếng chỉ trích câu nói bị dịch “thêm thắt”
của ông Abe. Truyền thông Tàu cộng còn ví Thủ tướng Shinzo Abe như trùm
phát xít Đức Adolf Hitler do câu phát ngôn “bị dịch thêm thắt”. Căng
thẳng Hoa – Nhật leo thang sau chuyến thăm đền Yasukuni của ông Abe và
tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông,
theo AFP một phần cũng từ chuyện nầy xảy ra.
8. Dịch sai trong văn bản ngoại giao, Hiệp ước Waitangi.
Dịch
sai trong các cuộc đàm phán cũng thường gây ra nhiều tranh cãi trầm
trọng, như giữa Mỹ và Pháp đã xảy ra. Trong một văn bản ngoại giao Pháp
gởi cho Mỹ, việc dịch nhầm chữ “demande”, có nghĩa là “đề nghị” đã gây
tác động tai hại cho các cuộc đàm phán giữa Paris và Washington hồi
năm 1830. Sau khi viên thư ký dịch thông điệp Pháp gửi cho Tòa Bạch ốc
với nội dung bắt đầu bằng “Le gouvernement français demande” thành
“chính phủ Pháp đòi hỏi”; T.T. Mỹ đã cho rằng ông “vừa nhận được một
loạt các yêu sách”. Sau khi biết rằng đây là một sai sót, đàm phán mới
được tiếp tục và mọi chuyện êm xuôi.
Ngoài chuyện
lỗi dịch thuật là vô tình, nhưng có khi người ta cố tình làm thay đổi ý
nghĩa thực sự của một vấn đề nào đó. Rõ nhất là Hiệp ước Waitangi. Năm
1840, chính phủ Anh thực hiện một thỏa thuận với 500 tù trưởng người
Maori ở New Zealand. Người Maori muốn được bảo vệ khỏi những tên tội
phạm, thủy thủ và thương lái đang tự do cướp bóc trong những ngôi làng
của họ, còn người Anh thì muốn mở rộng phạm vi thuộc địa của mình. Do
vậy, Hiệp ước Waitangi đã được soạn thảo và hai bên cùng ký kết. Một số
giới chức đã bị cáo buộc là khai thác sự khác biệt trong ngôn ngữ để
trục lợi. Trong Hiệp ước Waitangi đã xảy ra rắc rối bởi có những khác
biệt trong bản tiếng Anh và tiếng Maori đã dẫn tới các tranh chấp, đến
độ người ta đã trương biểu ngữ “Hiệp ước gian dối” trong phong trào
biểu tình phản đối của người Maori. Người Anh và Maori ký hai văn bản
hợp đồng, một bằng tiếng Anh và một bằng tiếng Maori. Hai văn bản khá
giống nhau, trừ phần quan trọng nhất. Trong bản tiếng Anh, người Maori
phải “nhượng lại cho Nữ hoàng Anh một cách tuyệt đối và không bảo lưu
tất cả các quyền và quyền hạn của Chủ quyền”, có nghĩa là chuyển hòn đảo
thành thuộc địa của Anh. Còn trong phiên bản tiếng Maori, được soạn
thảo bởi một nhà truyền giáo người Anh, người Maori sẽ không từ bỏ chủ
quyền của mình, mà là sự cai quản. Người Maori nghĩ rằng họ sẽ nhận được
một hệ thống pháp lý, nhưng vẫn được giữ quyền tự trị. Nhưng kết quả đã
không như vậy, người dân địa phương đồng ý cho người Anh lên đảo để đổi
lấy sự bảo vệ thường trực của Đế quốc Anh. Sau bao thế hệ, cho đến ngày
nay người ta vẫn còn đang cố giải nghĩa những vấn đề xoay quanh hiệp
ước này.
9. Cái “sừng” của Moses
Trong
giai đoạn từ cuối thời Gothic đến tận nửa sau thời Phục hưng, các nghệ
sĩ, các nhà điêu khắc Công giáo vẫn mô tả và vẽ Moses với những chiếc
sừng trên đầu. Nguyên nhân là do sai lầm của ông tổ của những người làm
nghề dịch thuật, Thánh St. Jerome. Thánh Jerome (Hierom) là một linh mục
Ki-tô giáo, một nhà thông thái, được phong là Tiến sĩ Hội thánh. Ông là
người đầu tiên dịch bộ Cựu Ước từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Latin, gọi là
Vulgate (Kinh Thánh) là văn bản chính thức của Giáo Hội Công Giáo La
Mã. Trong suốt 1.637 năm (382-2019),
trong bản dịch Latin cuối cùng, vốn đã trở thành cơ sở cho hàng trăm
bản dịch sau này, lại có một sai sót nổi tiếng. Khi Moses đi xuống từ
núi Sinai, trên đầu của ông có một “vầng quang” (radiance) hay trong
tiếng Hebrew là “karan”. Nhưng vì tiếng Hebrew trong văn viết không có
nguyên âm, nên Thánh Jerome đã đọc “karan” thành “keren”, một từ có
nghĩa là “có sừng” (horned). Chính từ lỗi dịch thuật này mà hàng thế kỷ
sau, Moses đều xuất hiện với một cặp sừng trong các bức họa và tác phẩm
điêu khắc, và cũng từ đó xuất hiện khuôn mẫu kỳ lạ và mang tính xúc phạm
về những người Do Thái mọc sừng. Thật là tai hại! Nhưng ai dám nghi ngờ
Kinh Thánh?
Theo tự điển Wikipedia, lý lịch của
Moses như sau: Moses (tiếng Latin: Moyses), là lãnh tụ tôn giáo, người
công bố luật pháp, nhà tiên tri, nhà chỉ huy quân sự và là sử gia. Ông
cũng được xem là người chép kinh Torah (5 sách đầu tiên của Kinh Thánh,
còn gọi là Ngũ kinh Moses). Trong tiếng Hebrew, ông được gọi là "Moses
Thầy chúng ta" (Moshe Rabbeinu). Moses cũng là một nhà tiên tri quan
trọng trong Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Đạo Bahá'í, Mormon và
Phong trào Rastafari. Theo ký thuật của Kinh Thánh, Moses là con của một
phụ nữ Hebrew (Do Thái). Khi biết đứa bé sơ sinh là con trai, bà tìm
cách cứu con mình khỏi bị giết (theo một chiếu chỉ của Pharaoh ra lệnh
tàn sát tất cả bé trai thuộc dân tộc Do Thái nô lệ, ngay khi chúng vừa
chào đời). Cuối cùng, Moses được nhận nuôi để trở nên một thành viên của
Hoàng gia Ai Cập. Sau khi ra tay giết chết một quản nô Ai Cập để cứu
một người Hebrew, Moses bị buộc phải chạy trốn, rồi trở thành mục tử. Về
sau ông được Thiên Chúa kêu gọi trở về Ai Cập với sứ mạng giải phóng
dân tộc mình khỏi ách nô lệ, dẫn dắt họ băng qua Hồng Hải, tiến vào
hoang mạc và, vì lòng vô tín và sự cứng lòng của dân Israel, ông cùng
với họ lưu lạc trong đó suốt 40 năm. Moses không được vào Đất Hứa. Ông
sống thọ 120 tuổi. Ông là một thiên tài quân sự. Buổi đầu sự nghiệp của
ông khá giống với vua Cyrus Đại Đế, vị Hoàng đế khởi lập Đế quốc Ba Tư.
Ông cùng với Cyrus Đại Đế đóng vai trò vô cùng lớn lao trong lịch sử.
Ông là một vị anh hùng dân tộc của người Do Thái.
10. Một từ ngữ giá trị 71 triệu USD.
Chuyện
xảy ra ở Hoa Kỳ, nhầm lẫn xảy ra do dịch sai. Năm 1978, ông Willie
Ramirez được đưa vào một bệnh viện ở Florida do đang đau nặng. Do thân
nhân không thể giải thích được Ramirez mắc bệnh gì vì họ không biết
tiếng Anh, họ nói với bác sĩ bằng tiếng Tây Ban Nha rằng họ ngờ là
Ramirez bị ngộ độc thực phẩm. Một nhân viên y tế cho rằng mình hiểu
tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh nên đã dịch từ “bị ngộ độc” (being
poisoned) thành “say” (intoxicated), mà trong tiếng Anh, từ ngữ này chỉ
dùng cho những người đã sử dụng quá nhiều ma túy hay rượu. Mặc dù người
nhà Ramirez tin rằng ông bị “viêm dạ dày ruột” (gastroenteritis), nhưng
thực ra ông ta bị xuất huyết não. Các bác sĩ tin rằng bệnh nhân bị ngộ
độc nên đã đưa ra phác đồ điều trị hoàn toàn sai. Do sơ suất như thế nên
Ramirez bị liệt cả tứ chi và bệnh viện đã phải bồi thường cho ông ta 71
triệu đô la. Chỉ dịch sai một chữ mà thiệt hại đến 71 triệu và một mạng
người, quá đắt!
III. Lời kết:
Trong
lịch sử giao tiếp của nhân loại, có không ít lỗi thông dịch, phiên
dịch, dịch thuật đã tạo ra những cuộc xung đột ngoại giao, những hiểu
lầm, những tốn kém tiền bạc vô cùng tai hại ngoài những chuyện buồn cười
từ lỗi chuyển dịch từ ngôn ngữ nầy qua ngôn ngữ kia ra xảy ra trong
cuộc sống. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, vẫn có những lỗi dịch
thuật trong các vấn đề quan hệ quốc tế, trong mọi lãnh vực, tạo ra biết
bao nhiêu điều rắc rối. Một người có thể nói được hai thứ ngôn ngữ,
nhưng không có nghĩa người đó biết cách dịch giữa hai ngôn ngữ đó. Dịch
thuật là một kỹ năng đặc biệt và cần đến nhiều công sức để học hỏi và
thực hành. Trong cuốn sách Found in Translation, hai dịch giả chuyên
nghiệp Nataly Kelly và Jost Zetzsche mang đến một góc nhìn đầy sinh động
về thế giới dịch thuật, với những câu chuyện hấp dẫn về mọi ngóc ngách
của lĩnh vực này. Một người thông ngôn, dịch thuật “xuất sắc” phải hội
đủ rất nhiều yếu tố nhưng yếu tố quan trọng nhất là phải hiểu một cách
thông suốt cả 2 ngôn ngữ trong phạm vi người đó làm nhiệm vụ.
Để
chấm dứt đề tài, xin đề cập đến chuyện dịch thơ Hồ Xuân Hương, như một
chuyện… cười. Trong cuốn “Spring Essence, The Poetry of Ho Xuan Huong”
do nhà xuất-bản Copper Canyon ấn-hành, một người Mỹ dịch thơ của
Hồ-Xuân-Hương. Trong bản dịch có câu: “Kind sir, if you love me, pierce
me with your stick”, người dịch chuyển dịch câu: “Quân tử có thương thì
đóng cọc”. Dịch như vậy bởi kiến-thức hạn hẹp về ý và lời của người
dịch, tuy có lời giải-thích: “mít có thể chín sớm nhờ đóng cọc, theo
kinh-nghiệm của người Việt” nhưng để diễn dịch ý quân tử có thương thì
đóng “cái cọc của chàng” vào thì người Mỹ nầy hoàn-toàn mù tịt. Còn câu:
“Rúc-rích thây cha con chuột nhắt/ Vo-ve mặc mẹ cái ong bầu” thì ông ta
dịch: “The little father mouse squeaking about, doesn’t care, nor the
mother honeybee buzzing along, fat with pollen”; “thây cha con chuột
nhắt” mà lại dịch là “con chuột cha” với “mặc mẹ cái ong bầu” là “con
ong mẹ” thì rõ-ràng người dịch chưa biết gì về Việt ngữ, chưa hiểu “thây
cha”, ”mặc mẹ”, một lối nói ví-von trong dân-gian Việt là gì. Đúng là
việc phiên dịch, dịch thuật là việc làm thiên nan vạn nan vậy!
Lê Chánh Thiêm
Tổng hợp.
(*ĐAD chuyển)
9-2019.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét