Triều Phong Đặng Đức Bích
1. Vinh Danh Anh Hùng Dân Tộc :
Người Pháp tự
hào về Napoléon Bonaparte. Ông là một thiên tài quân sự, đã chinh phục
một phần lớn lãnh thổ Âu Châu, nhưng cuối cùng thất bại trận Waterloo
tại nước Bỉ.
Dân tộc Pháp
luôn luôn tôn kính ông. Du khách đến Paris thấy ở đầu đại lộ Champs
Elisée, Khải Hoàn Môn được xây dựng, một công trình kiến trúc Văn Hóa
Hùng Sử Pháp, để tưởng nhớ Napoléon Bonaparte, với những chiến thắng vẻ
vang liên tiếp đã làm rạng danh trang sử Pháp.
Vào thời gian
này, tại Mỹ Quốc cũng có cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Chính George Washington,
một chính trị gia lỗi lạc, một anh hùng dân tộc, đã đưa đất nước Hoa Kỳ
đến chỗ vinh quang.
Việt Nam chúng
ta có vua Quang Trung Nguyễn Huệ là kết hợp hai đặc điểm Thiên Tài Quân
Sự của ông Napoléon Bonaparte và chính trị gia lỗi lạc của ông George
Washington. Vua Quang Trung hành quân tốc chiến tốc thắng, biến hóa như
thần, hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật sắt thép. Từ khi làm Tướng, giữa
lúc nước nhà ly loạn khắp nơi, đến khi ông mất, xông pha trăm trận bách
chiến bách thắng, ông chưa hề biết chiến bại.
Chúng ta phải
lập Khải Hoàn Môn Việt Nam để vinh danh vị anh hùng dân tộc Quang Trung
Nguyễn Huệ, là gương sáng cho thế hệ con cháu mai hậu noi theo. Chỉ
trong 5 ngày chiến đấu ào ạt, Vua Quang Trung đã tiêu diệt 20 vạn quân
Thanh, chiến thắng vẻ vang trong những trận đánh thần tốc oai hùng. Đây
là một chiến công lớn lao, so sánh với chiến công của các danh tướng
Đông Tây Kim Cổ trên thế giới, là niềm hảnh diện chung cho Dân Tộc Việt
Nam.
2. Cuộc Cách Mạng Dân Tộc :
Vào thế kỷ thứ
18, nhiều cuộc Cách Mạng Dân Tộc nổi lên khắp nơi từ Âu, Mỹ, Á. Cách
Mạng Pháp 14/7/1789 lật đổ chế độ phong kiến tiếp nối qua nhiều thế hệ.
Sự thống trị cha truyền con nối từ đời nầy sang đời khác bị đánh đồ,
nông nghiệp phải nhường bước cho thương nghiệp. Nhiều nước đua nhau lập
đội thương thuyền, tranh giành thị trường và chiếm thuộc địa.
Tại Việt Nam
thời bây giờ, loạn lạc nổi lên khắp nơi như vụ loạn Nguyễn Tuyển, Nguyễn
Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất…, quan quân địa
phương dẹp không nổi.
Trong Nam, năm
1782 Nguyễn Phúc Ánh Nhà Nguyễn bị Nhà Tây Sơn đánh bại tại Ngả Bảy
Thất Kỳ Giang không còn manh giáp, Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân ra
đảo Phú Quốc. Trong trận nầy, Nguyễn Phúc Ánh cầu cứu một người Pháp tên
là Manuel đem thủy quân đến giúp, nhưng không chống nổi, Manuel phải
đốt tàu mà chết. Về sau, Nguyễn Phúc Ánh nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc, đem con
là Hoàng tử Cảnh đi cầu cứu nước Pháp, nhờ đem quân sang giúp, chống
lại nhà Tây Sơn, khơi mào cho sự dòm ngó tìm thị trường và thuộc địa của
Đế quốc phương tây. Một trăm năm đô hộ giặc Tây ! Dân Việt trải qua bao
nhiêu sự đau khổ, bị áp bức, chết chóc, sưu cao thuế nặng.
Năm 1784,
Nguyễn Phúc Ánh rước quân Xiêm La do hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và
Chiêu Sương, đem 2 vạn quân và 300 chiến thuyền chiếm Rạch Giá, Ba Thắt,
Trà Ôn và Mân Thít. Đi đến đâu quân Xiêm cướp bóc và quấy nhiễu đến đó,
thật là tai hại.
Ở miền Bắc
Trịnh Giang chuyên quyền, giết vua Lê, tàn sát các công thần. Họ Trịnh
ăn chơi xa xỉ khiến công quỹ hao hụt, sưu thuế nặng nề. Cuộc tranh bá đồ
vương Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài trên một trăm năm (1620-1775) làm
dân chúng chết chóc, điêu linh khổ sở.
Năm 1788, Lê
Chiêu Thống rước quân Tàu do Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng, đem quân
xâm chiếm Việt Nam, thiếu chút nữa nước ta bị quân Tàu đô hộ một lần
nữa. Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, qua bốn lần Bắc thuộc, khởi đầu từ năm
207 trước Tây lịch, thiệt quá khủng khiếp! Người dân phải lên rừng tìm
ngà voi, xuống biển mò ngọc trai, sưu cao thuế nặng dưới sự cai trị áp
bức của quân xâm lược. Dân tộc Việt Nam, trải qua hàng chục thế kỷ bị đô
hộ, với biết bao nhiêu sự phấn đấu vượt bực để khỏi bị người Tàu đồng
hóa.
Giáo sĩ Diego
de Jumilla viết: “Để đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, Nhà Tây Sơn đã
đứng lên làm cuộc Cách Mạng Dân Tộc, lật đổ chế độ thối nát, đem công
bằng và cơm no áo ấm cho dân chúng”.
Buttinger, nhà
nghiên cứu lịch sử chính trị đã nói: “Những lực lượng xã hội thời bấy
giờ, như khách trú người Hoa, người Chiêm Thành, các giới nhà chùa Phật
Giáo, Lão Giáo, Các Sắc Tộc thiểu số đều nhiệt liệt hưởng ứng và giúp
đỡ, đưa phong trào Tây Sơn đến chỗ thành công”.
Jean
Chisneaux, giáo sư sử học Pháp viết: “Sự kiện lớn nhất đối với Nhà Tây
Sơn là việc khôi phục, thống nhất đất nước, xóa bỏ việc chia cắt đất
nước thành hai vương quốc Trịnh-Nguyễn đối địch”.
Trong cuốn
Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của ông Đặng Xuân Bảng, có đoạn viết: “Trận
chiến lúc bấy giờ giống như cái thế Tam Quốc bên Tàu: Bắc Ngụy, Tây Thục
và Đông Ngô. Ở Việt Nam Nhà Tây Sơn đã đánh Chúa Nguyễn, diệt chúa
Trịnh, thống nhất đất nước”.
3. Binh Pháp Nguyễn Huệ :
Vào thời Xuân
Thu Chiến Quốc, “Binh pháp Tôn Tử” nổi danh và được áp dụng qua nhiều
thế kỷ. Các nhà quân sự phương đông và Việt Nam thường hay nghiên cứu và
áp dụng binh pháp nầy, nhưng kết quả thành bại, phần lớn tùy vào khả
năng và sự tài giỏi của người điều khiển.
Vua Quang
Trung Nguyễn Huệ, xông pha trận mạc khắp các chiến trường, đánh vào phía
nam, bốn lần bạt thành Gia Định, đánh ra phía Bắc, ba lần vào Thăng
Long, thắng Chúa Nguyễn, diệt Chúa Trịnh, đánh bại quân Xiêm La, phá tan
quân Mãn Thanh, áp dụng binh pháp thiên biến vạn hóa: Binh Pháp Nguyễn
Huệ.
- Quân đội hùng dũng
- Kỷ luật sắt thép
- Tình báo chính xác
- Kế hoạch tinh vi
- Chuyển quân chớp nhoáng
- Chỉ huy dũng mãnh
- Trận đánh thần tốc
- Ân uy, độ lượng
Vua Quang
Trung tổ chức một đội binh dũng mạnh. Ông thường nói: “Binh lính cốt hòa
thuận chứ không cốt đông, cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều”.
Theo lời các
nhà truyền giáo Tây Phương, quân đội của ông có tinh thần chiến đấu cao,
kỷ luật sắt thép, không xâm phạm tài sản của dân chúng. Người lính được
huấn luyện gan dạ, một chống nổi ba bốn nên đánh đâu thắng đấy.
“Biết địch
biết ta, trăm trận trăm thắng”, nói lên tính cách quan trọng của tình
báo. Vua Quang Trung có một đội ngũ tình báo tài giỏi, tháo vát, tình
báo viên len lỏi, xâm nhập vào lòng đất địch để lấy tin tức chính xác,
biết quân địch muốn gì và đang làm gì.
Kế hoạch hành
quân, tấn công chớp nhoáng vào địch quân là một chiến thuật thần tốc kỳ
tài của Vua Quang Trung, thiên biến vạn hóa, áp dụng như thần trên các
chiến trường Nam Bắc. Quân Xiêm La được Nguyễn Phúc Ánh rước về Nam Việt
Nam và làm chủ tình hình Gia Định từ tháng 8 năm 1784. Nguyễn Huệ đem
quân vào Rạch Gầm - Xoài Mút thuộc tỉnh Định Tường, áp dụng chiến thuật
lùi để nhử địch vào các điểm chiến lược. Quân Xiêm đến, quân của Nguyễn
Huệ tràn ra đánh cả hai mặt thủy bộ, quân Xiêm xoay trở không kịp, chết
rất nhiều, chỉ còn vài ngàn người, tìm đường thoát thân chạy về nước.
Quân Tàu được
Lê Chiêu Thống rước về Bắc Việt Nam qua ba ngả Nam Quan, Tuyên Quang,
Cao Bằng và làm chủ tình hình Thăng Long từ tháng 11 năm 1788. Quân ta
ít, quân Tàu đông, quân ta ở xa tới, quân Tàu đã xây đồn lũy, làm chủ
tình thế. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết, Vua Quang Trung tuyên bố:
“Lần nầy ta ra trận hành quân, phương lược tiến đánh đã có sẵn, chẳng
qua 10 ngày là đuổi được quân Thanh”. Ông chia quân làm 3 đạo, với binh
pháp Nguyễn Huệ, mẹo mực như thần, hành quân tốc chiến tốc thắng và chưa
đầy một tuần lễ, đã phá tan đoàn quân xâm lược Mãn Thanh, quân ta chiến
thắng vẻ vang, chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Một điểm khác,
Vua Quang Trung điều binh rất nhanh. Ông chuyển quân vào Miền Nam, ra
Miền Bắc quân thủy bộ đi rập với nhau, ăn khớp trong việc lập thế trận.
Trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Trần Công Xán phát biểu: “Người Tây Sơn
hành quân như bay tiến quân rất gấp, xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như
thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp”.
Vua Quang
Trung cũng áp dụng đúng mức chiến tranh tâm lý, là để quân Xiêm La và
quân Xâm lược Mãn Thanh, cướp bóc hiếp đáp nhân dân, tạo nộ sĩ trong dân
chúng, với lòng căm phẫn quân thù bạo tàn. Ông là một tướng tài, một vị
vua khoan dung độ lượng, lấy ân uy và đảm lược chinh phục lòng người,
nên ai nấy đều kính sợ.
4. Cái Trí và Cái Dũng
Ông là người
có một bộ óc thông minh lỗi lạc, một nhãn quan đặc biệt, một uy vũ khác
thường. Sách Đại Nam Chính Biên Lược Truyện có đoạn tả chân dung của Vua
Quang Trung Nguyễn Huệ: “Ông ta tiếng nói như chuông, mắt lập lòe như
ánh điện, là người thông minh kiên quyết, giỏi chiến đấu, người người
đều kính nể”. Ngoài cái dũng của vị anh hùng tài trí, tiên phong nơi
chiến trận, ông có nhiều mưu lược tùy cơ ứng biến trong các trận đánh
khác nhau, từ đồi núi đến đồn lũy, từ bộ chiến đến thủy chiến, biến hóa
không lường, chiến thuật điều binh chớp nhoáng, đem lại chiến thắng vẻ
vang :
Đệ nhất anh hùng giữa thế gian
Dẹp tan xâm lược cứu giang san
Đống Đa giặc Mãn thây chồng chất
Xoài Mút quân Xiêm xác ngổn ngang
Kim Cổ vĩ nhân so xứng bậc
ĐôngTây danhtướngsánh cùnghàng
Quang Trung thế hệ tài năng trẻ
Tô điểm nhà Nam rạng vẻ vang
Vua Quang
Trung có nhiều sáng kiến đặc biệt, phát sinh từ một tinh thần Quốc Gia
cấp tiến và sáng suốt về việc sử dụng chữ Nôm, một ý niệm Cách Mạng Tự
chủ Độc Lập. Ông nghe ai tài giỏi hiền đức, lấy lễ Tân Sư, tức vừa coi
là khách vừa coi là Thầy, mời tham gia việc nước Các bậc tài danh như La
San Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ,
Ninh Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Trần Bá Lâm, Võ Huy Tấn … đều được mời tham
chính. Ông chỉnh đốn triều chính, cải cách ruộng đất, cải tổ thuế khóa.
Ông nghĩ ngay đến việc đúc tiền để độc lập về mọi mặt và đồng tiền
“Quang Trung Thông Bảo” được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê.
|
5. Niềm Tự Hào Dân Tộc :
Dân Tộc Việt
Nam tự hào về vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Thế hệ con cháu mai hậu sẽ xây
Khải Hoàn Môn Việt Nam tại núi Bàn Sơn, nơi xuất quân ra Bắc đánh quân
xâm lược, hay tại Gò Đống Đa, nơi chiến thắng quân Tàu để vinh danh ông.
Ông là bậc kỳ tài dũng mãnh, với một thời gian ngắn kỷ lục, ông đã tiêu
diệt 200 ngàn quân Thanh mau như chớp nhoáng, đến nỗi Vua Càn Long phải
nể vì, mời Vua Quang Trung tham dự lễ Khánh Thọ Bát Tuần của mình được
tổ chức tại Nhiệt Hà bên Tàu, để nhìn mặt thật sự và chiêm ngưỡng người
đã chiến thắng vẻ vang Thiên Triều phương Bắc. Đại Nam Chính Biên Liệt
Truyện có đoạn nói Vua Càn Long Nhà Thanh rất vui mừng và phê ngay vào
góc tờ biểu: “Ta sắp được gặp nhau là điều mong ước lớn”.
Từ những chiến
thắng vinh quang ấy, khi Vua Quang Trung tại vị, bãi việc cống người
vàng thế mạng Liễu Thăng, mà nước Tàu đã áp đặt các vị vua Việt Nam,
hàng năm phải triều cống từ năm Đinh Mùi 1427.
Vua Quang
Trung đề cao tinh thần Quốc Gia Dân Tộc, dùng chữ Nôm thay thế chữ Hán
trong các chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú. Những vần thơ trữ tình của Nữ
Sĩ Hồ Xuân Hương, thiên trường ca Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu, bản
dịch Chinh Phục Ngâm của Đoàn Thị Điểm là những áng văn chữ Nôm tuyệt
tác, với sự đóng góp cơ bản thuần túy Dân Tộc vào nền Văn Hóa bắt đầu
mang tích cách Độc lập, Tự chủ của Dân Tộc Việt Nam.
Hơn thế nữa,
Vua Quang Trung còn chuẩn bị kế hoạch đòi lại 6 châu thuộc Hưng Hóa, 3
động thuộc Tuyên Quang, đã bị nước Tàu xâm chiếm trước kia, sát nhập vào
Lưỡng Quảng. Công việc đóng tàu, đúc vũ khí, rèn luyện binh sĩ đã sắp
đặt từ lâu. Sứ giả sang Tàu năm Nhâm Tý 1792, cầu hôn cưới Công Chúa
Thanh Triều và đòi đất đai, là cái cớ đánh lấy lại đất, nếu Thanh Triều
từ chối. Nhưng tiếc thay, khi phái bộ Sứ giả Việt Nam sang Trung Quốc
thì được tin Vua Quang Trung thăng hà, sứ giả phải quay về.
Bài học Lịch Sử có đoạn:
Máu đào nhuộm thắm từng trang
Chỉ quen chiến đấu đầu hàng không quen
Em ơi nước mất bao phen
Mà phen nào cũng vang tên anh hùng
Nói lên những
trang sử Việt Nam viết bằng máu và nước mắt. Nhiều vị anh hùng đã đẩy
lui quân xâm lược phương Bắc như Lê Lợi, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt,
Nguyễn Huệ …, nhưng chiến thắng Đống Đa của Vua Quang Trung là trận
đánh kiêu hùng nhất, vẻ vang nhất, trong thời gian kỷ lục 5 ngày đã tiêu
diệt 20 vạn quân Thanh, nhanh chưa từng thấy, làm quân Tàu hãi hùng
khiếp sợ, làm rạng danh trang sử Việt Nam. Từ cửa ải Lạng Sơn trở lên
phía Bắc, người Tàu già trẻ dìu dắt nhau chạy trốn, trên mấy trăm dặm
tuyệt nhiên không có người và khói bếp.
Trong Sách Trí
Thức Việt Nam cuối thế kỷ 18, ông Hồ Văn Quang viết : “ Vua Quang Trung
mang một bản sắc đặc biệt, không chỉ riêng cho Dân Tộc Việt Nam mà cho
cả thế giới. Đối với chúng ta, không có gì gượng gạo, là quá đáng khi
ghép đằng sau tên ông những danh từ đẹp đẻ, kính trọng đầy thán phục như
: Anh hùng, thiên tài quân sự, thiên tài ngoại giao, một chính trị gia
lỗi lạc, một nhà cải cách xuất chúng, một vị Thánh, một vị Thần linh, vì
chỉ có ông ta mới xứng đáng mang danh Đại Đế, đã đưa Dân Tộc nhỏ bé như
Việt Nam có thể đạt đến đỉnh vinh quang sáng chói nhất tại vùng Đông
Nam Á vào cuối thế kỷ 18 ”.
Vua Quang
Trung là niềm hãnh diện và tự hào của Dân Tộc Việt Nam, là tấm gương
sáng cho thế hệ tuổi trẻ tương lai, lòng tràn đầy nhiệt huyết, đang vùng
dậy khắp nơi, nhận lãnh trách nhiệm đầy màu sắc hy vọng, tạo thành một
sức mạnh đứng lên, đòi hỏi Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho Dân Tộc Việt
Nam.
Triều Phong Đặng Đức Bích
Tài liệu tham khảo :
- Đại Nam Nhất Thống Chí - Nguyễn Tạo
- Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Ngô Thời Chí
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Ngô Sĩ Liên
- Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim
- Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu - Đặng Xuân Bảng
- Việt Sử Toàn Thư - Phạm Văn Sơn
- Trí Thức VN cuối thế kỷ 18 - Hồ Văn Quang
- L'histoire du Việt Nam - Philippe Devillers
- L'impire d'Annam - Gosselin
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét