Tại Hoa Kỳ, Ngày Lễ Độc Lập, còn gọi là 4 tháng 7 (the 4th of July), xảy ra hàng năm, là một ngày lễ
liên bang để kỷ niệm Tuyên ngôn Độc lập
được ký năm 1776.
Ngày lễ này thường được đi kèm với
những cuộc diễn hành, liên hoan ngoài trời, và nhiều buổi lễ công cộng. Từ năm 1777, pháo hoa đã được đốt để đón mừng ngày lễ.
Tuy ngày 4 tháng 7 (JULY 4) đã được kỷ niệm từ lâu, nhiều người cho rằng ngày này
không chính xác. Trong cuộc Cách mạng, những
người thuộc địa ở vùng Tân Anh (New England)
đã chiến đấu với quân Anh từ tháng 4 năm 1775. Kiến nghị đầu tiên
trong Quốc Hội để giành
độc lập được đưa ra trong ngày 8 tháng 6. Sau khi có nhiều bàn cãi, Hội nghị đã
bí mật đồng thuận bầu (biểu quyết với tỷ số 13-0) đòi độc lập từ Đế quốc Anh trong ngày 2 tháng 7. Hội nghị sau đó sửa đổi văn bản tuyên
ngôn cho đến sau 11 giờ ngày 4 tháng 7, khi 13 thuộc địa bầu chấp nhận và đưa
ra một phiên bản chưa ký cho các nhà in. ( New York không tham
gia bầu trong cả hai cuộc). Philadelphia đón mừng
Tuyên ngôn bằng cách đọc nó với công chúng và đốt lửa mừng trong ngày 8 tháng 7. Mãi đến ngày 2 tháng 8 thì một phiên bản chính thức mới được
các thành viên trong hội nghị ký, nhưng vẫn giữ bí mật để đề phòng quân Anh trả
đũa.
John Adams, viết thư cho vợ Abigail trong ngày 3 tháng 7 rằng ông tin rằng ngày 2 tháng 7 sẽ được kỷ niệm làm ngày độc lập cho
Hoa Kỳ trong các thế hệ tới. Ông đã hơi sai hai ngày vì tuy biểu quyết trong
ngày 2 tháng 7 là việc quyết định, nhưng ngày 4 tháng 7 mới là ngày mới được
viết trong bản tuyên ngôn. Văn bản của Jefferson,
sau khi được Hội nghị hiệu đính, được chấp nhận trong ngày 4-7. Đó cũng
là ngày đầu tiên dân chúng Philadelphia
nghe được tin về việc đòi độc lập chính thức này.
1- Nước Mỹ với 13 tiểu bang đầu tiên:
Ngày 4 tháng 7 năm 1777 là ngày Hoa kỳ giành
độc lập và trở thành một quốc gia. Tính chất thiêng liêng của ngày này
được thể hiện qua câu văn trong báo Virginia ra ngày 18/07/1777: “Ngày
4 tháng 7 là ngày vinh quang và đáng nhớ nhất, từ rày về sau sẽ được tổ chức
cho toàn nước Mỹ từ năm này đến năm khác cho đến khi nào thời gian không còn nữa. Amen và Amen!”.
Hai nơi làm lễ lớn nhất là Philadelphia (Pennsylvania) và Boston (Massachusetts). Năm
1777, người dân Phidalelphia tưởng nhớ ngày 4 tháng 7: chuông ngân, súng nổ,
đèn cầy thắp sáng, pháo đốt, nhưng chính thật ngày 4 tháng 7 năm 1777 là một
ngày rất giản dị bình thường. Ngày nay, người dân Philadelphia làm lễ trong
Independence Hall, nơi những hoạt cảnh lịch sử đã được dựng lại và bản Tuyên
ngôn Độc lập trịnh trọng được đọc lên.
Khi chiến tranh chấm dứt năm 1783, ngày 4 tháng 7 trở thành ngày nghỉ trong vài nơi. Tại Boston, ngày lễ Độc lập đã thay thế ngày 5 tháng 3, ngày thảm sát cuả Boston (Boston Massacre), và được xem như ngày lễ tổ quốc chính. Có diễn văn, sự kiện quân sự, diễn hành và pháo bông. Năm 1941, quốc hội Mỹ tuyên bố ngày 4 tháng 7 là ngày lễ chính thức của USA. Cũng cần nhắc lại đôi chút về lịch sử: Christopher Columbus là người khám phá ra châu Mỹ đầu tiên vào năm 1492. Nhiều dân thuộc địa tiếp nối đến nước Mỹ để tìm tự do tín ngưỡng. Họ đến từ: Espagne (Tây Ban Nha), Portugal (Bồ Đào Nha), Anh, Pháp, Hòa Lan đến thuộc địa xứ này. Dân hành hương (pilgrims) là nhóm dân tị nạn đầu tiên tại Mỹ: nhóm Puritans đến cư ngụ tại Massachusetts, nhóm Quakers đến vùng Pennsylvania và người Công Giáo định cư tại Maryland.
Khi chiến tranh chấm dứt năm 1783, ngày 4 tháng 7 trở thành ngày nghỉ trong vài nơi. Tại Boston, ngày lễ Độc lập đã thay thế ngày 5 tháng 3, ngày thảm sát cuả Boston (Boston Massacre), và được xem như ngày lễ tổ quốc chính. Có diễn văn, sự kiện quân sự, diễn hành và pháo bông. Năm 1941, quốc hội Mỹ tuyên bố ngày 4 tháng 7 là ngày lễ chính thức của USA. Cũng cần nhắc lại đôi chút về lịch sử: Christopher Columbus là người khám phá ra châu Mỹ đầu tiên vào năm 1492. Nhiều dân thuộc địa tiếp nối đến nước Mỹ để tìm tự do tín ngưỡng. Họ đến từ: Espagne (Tây Ban Nha), Portugal (Bồ Đào Nha), Anh, Pháp, Hòa Lan đến thuộc địa xứ này. Dân hành hương (pilgrims) là nhóm dân tị nạn đầu tiên tại Mỹ: nhóm Puritans đến cư ngụ tại Massachusetts, nhóm Quakers đến vùng Pennsylvania và người Công Giáo định cư tại Maryland.
Dân thuộc địa Hoà Lan và Pháp đến Mỹ
để giao lưu mua bán. Dân Pháp định cư tại Canada,
dân Espagne đến Florida, dân Hòa Lan đến New York.
Năm 1763, Anh Quốc thắng quân Pháp và chiếm lấy vùng đất Canada.
Năm 1763, Anh Quốc thắng quân Pháp và chiếm lấy vùng đất Canada.
Truy nguyên, khởi sự có
13 tiểu bang đầu tiên của Hoa kỳ gồm: Connecticut, New Hampshire, New York, New
Jersey, Massachusetts, Pennsylvania, Delaware , Virginia, North Carolina, South
Carolina, Georgia, Rhode Island, Maryland.
Lúc ký kết, Hoa Kỳ gồm 13 thuộc địa
dưới quyền cai trị của vua George III (1738-1820, Windsor). Lúc bấy giờ, các thuộc địa Anh ở Mỹ
phải trả thuế cho mẫu quốc Anh quá cao nhưng lại không có đại biểu trong Quốc
Hội Anh (Taxation without Representation), nên nổi dậy đòi quyền tự do và độc
lập.
Năm 1774 đại biểu của 13 thuộc địa nói
trên đây họp lần đầu tiên tại Philadelphia,
Pennsylvania. Cuộc họp này gọi là
Quốc Hội Lục Ðịa (Continental Congress) và do Tướng George Washington thống
lãnh quân đội chống lại Anh Quốc. Các thuộc địa này sau này trở thành 13 Tiểu
bang đầu tiên của Mỹ khi Mỹ trở thành độc lập với Anh Quốc.
2- Tiến
trình giành độc lập tại Hoa Kỳ:
Năm 1774: 13 thuộc địa gởi đại diện đến
Philadelphia,
Pennsylnania để thành lập Quốc Hội Lục địa thứ Nhất (First Continental
Congress). Họ nôn nóng chuẩn bị nhưng vẫn còn lâu mới tuyên chiến.
Tháng 4/1775: Quân đội của vua George
tiến về Concord, Massachusetts. Tiếp theo là trận chiến tại Concord, là tiếng súng
(tại đây) vang vọng đến khắp thế giới, đánh dấu bước đầu cuộc cách mạng Mỹ.
Tháng 5/1776: Sau gần một năm cố gắng
giải quyết sự khác biệt với mẫu quốc Anh, các thuộc địa gởi một lần nữa các đại
diện cho Quốc Hội Lục địa thứ Nhì.
Tháng 6/1776: Sự quyết tâm được khởi
đầu bởi Richard Henry Lee, Virginia.
Nhận thấy rằng những cố gắng của họ vô vọng, một ủy ban được thành lập để soạn
thảo bản Tuyên Ngôn Độc Lập công khai. Đứng đầu là Thomas Jefferson, ủy ban còn
có John Adams, Ben Benjamin Franklin, Philip Livingston và Roger Sherman.
Ngày 6/7/1776: Pennsylvania Evening
Post là tờ báo đầu tiên đăng bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Đến ngày 8/7/1776: Lần đầu
tiên bản tuyên ngôn được đọc trước công chúng tại Independence Square của Philadelphia. Cái chuông trong Independence
Hall được biết dưới tên “Province Bell” sau này được đổi tên là Liberty Bell
(Chuông Tự Do).
Đến tháng 8/1776: Việc ký Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập bắt đầu ngày 4 tháng 7 nhưng phải đến tháng 8 mới hoàn tất. Và
ngày 4 tháng 7 được chấp nhận như ngày kỷ niệm chính thức cho sự độc lập Hoa Kỳ
tách khỏi nước Anh.
Từ đó ngày 4/7/1777 chính thức được xem là Lễ Independence Day được cử hành
lần đầu tiên.
3- Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập:
Bản Tuyên Ngôn độc Lâp trở thành một
tài liệu chính trị được ca tụng nhất và thời nào cũng được chép ra. Thomas
Jefferson là người soạn ra bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập và sau ngày được bầu làm Tổng
Thống thứ 3 của Hoa Kỳ. Bản Tuyên ngôn Độc Lập được xét duyệt bởi John Adams,
Benjamen Franklin và Jefferson, rồi được 56 hội viên ký tên và xác nhận không
còn là thuộc địa của Anh Quốc nữa. Trong bản tuyên ngôn có ghi rõ như sau:
“The Declaration of Independence:
We celebrate American
Independence Day on the Fourth of July every year. We think of July 4, 1776, as
a day that represents the Declaration of Independence
and the birth of the United
States of America as an independent nation”.
(Chúng ta cử hành Ngày Lễ Độc Lập của
Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 7 hàng năm. Chúng ta nghĩ rằng ngày 4 tháng 7 năm 1776,
là ngày Tuyên bố Độc lập và cũng là ngày Khai sanh Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, là
một nước Độc lập)
John Hancock, Chủ tịch Second
Continental Congress (Đại hội Lục Địa lần II), là người đầu tiên ký bản Tuyên
Ngôn. Viết hoa, chữ ký của ông nổi bật trải rộng trên tài liệu này. Từ đó khi
nào người ta hỏi bạn “John Hancock” tức là người ta có ý muốn bạn ký tên đó.
Cuối cùng có tất cả 56 người ký bản Tuyên Ngôn, chứng tỏ sự anh hùng của họ vì
tuyên bố đòi độc lập với Anh Quốccó thể xem là một hành động phản bội, có thể
bị tội tử hình. Nhưng họ can đảm hy sinh mọi thứ bởi họ phải bỏ nhà và ẩn náu
nơi khác.
Bản tuyên Ngôn Độc Lập là bằng chứng
của Cách Mạng Hoa Kỳ, nói lên những bất bình với vua George III. Đó cũng là một
bài tuyên bố về lãnh thổ và triết lý, chiếu theo những bài viết của các triết
gia John Locke và Jean Jacques Rousseau. Nó khẳng định rằng mọi người đều do
Thượng Đế tạo ra, từ thiên nhiên mà ra, vậy phải có những quyền lợi tự nhiên
nào đó, không ai được phép xâm phạm quyền tự do của họ. Từ đó, Bản Tuyên Ngôn
và Cách Mạng Hoa Kỳ là nguồn cảm hứng cho mọi người tìm tự do trên khắp thế
giới.
4- Phong tục ngày lễ Độc lập (July 4):
Ngày Độc lập tại Hoa Kỳ được chào đón
với những biểu hiện yêu nước. Nhiều nhà chính trị thường đọc diễn văn ca ngợi
các di sản và người dân của Hoa Kỳ. Các gia đình thường làm cuộc liên hoan
ngoài trời, thường tụ họp với những người bà con ở xa, vì được nghỉ nhiều ngày
cuối tuần hơn. Từ đầu tháng 7 Dương lịch, các cuộc diễn hành được tổ chức sáng
ngày 4, vào buổi tối thường có pháo hoa ngoạn mục. Trong dịp lễ thì nhiều gia
đình treo cờ Hoa Kỳ ở trước nhà để đón mừng.
Trong một số tiểu bang, dân thường
được phép mua pháo hoa nhỏ hơn để đốt. Vì lý do an toàn, một số tiểu bang cấm
điều này hay hạn chế cỡ của pháo hoa, nhưng có nhiều người đem pháo hoa lậu từ
những tiểu bang ít hạn chế hơn. Nhiều quốc gia trên thế giới cũng chung tâm
chào đón Lễ Độc Lâp (July 4) của Hoa Kỳ như một biểu hiện, đồng cảm với sự tự do,
độc lập bình đẳng cho mọi người, mọi dân tộc.
From: - Wikipedia.
- History
of July 4.
Tài liệu do Hồ Xưa sưu tầm từ nhiều nguồn
sắp xếp lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét