Ôn chuyện cũ:
Thi Cử Trước Đây
Bài viết của Hoàng Đằng
Từ
01/7 đến 04/7/2016, kỳ thi Phổ Thông Trung Học Quốc Gia sẽ được tổ chức
nhằm đánh giá kết quả học tập của tất cả học sinh Việt Nam học xong
chương trình lớp 12. Kỳ thi có 2 mục đích: một là công nhận tốt nghiệp
trung học phổ thông, hai là làm cơ sở xét tuyển vào đại học.
Nhân dịp này, tôi muốn ôn lại chuyện thi cử trước đây với người xưa và cung cấp một ít thông tin cho người nay.
Trước
đây, kể từ khi mới vỡ lòng cho đến xong bậc phổ thông trung học, học
sinh phải qua 5 kỳ thi đánh giá (examen) lực học mỗi giai đoạn, chưa kể
các kỳ thi tuyển (concours); sau mỗi kỳ thi, nếu đỗ, được cấp chứng chỉ -
certificat - hay bằng – diplôme.
Bài
viết này chỉ giới hạn trong thời kỳ tân học (chương trình học dùng chữ
Pháp thời Pháp thuộc rồi chữ Quốc Ngữ trong vùng Quốc Gia Việt Nam và
Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát), không “với” tới thời kỳ cựu học (chương
trình học dùng chữ Hán) và thời kỳ tân học trong vùng Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa kiểm soát.
Trước
năm 1945, bậc tiểu học gồm 6 năm. Xong ba năm đầu, thi Yếu Lược; học
thêm 3 năm nữa, thi Tiểu Học. Người học xong yếu lược về trong cộng
đồng, được trọng vọng, có thể giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý, điều
hành việc hương thôn, làng xã (lý trưởng, hương chức ...). Sau năm 1945,
bậc tiểu học rút bớt 1 năm, còn 5 năm; kỳ thi Yếu Lược bỏ; học sinh học
xong 5 năm thi bằng Tiểu Học. Người có bằng Tiểu Học có thể đi làm công
sở nhà nước, có thể làm giáo viên dạy các lớp bậc yếu lược.
Bậc trung học gồm 7 năm, chia ra 2 cấp:
-
Xong 4 năm đầu, thi bằng Thành Chung (trung học đệ I cấp); người có
bằng Thành Chung có thể xin làm công sở nhà nước, sau một thời gian kinh
nghiệm, có thể lên hàng lãnh đạo: quản lý, điều hành, giữ những chức vụ
như chủ sự phòng (trưởng phòng); người có bằng thành chung cũng có thể
xin bổ dụng giáo viên dạy bậc tiểu học, vào quân đội, trước năm 1962,
được gởi đi học để ra sĩ quan.
-
Nếu không đi làm, học thêm 2 năm nữa, thi Tú Tài phần 1; đỗ Tú Tài phần
1 chỉ được cấp chứng chỉ, không cấp bằng. Xong Tú Tài phần 1, học thêm
một năm nữa, thi Tú Tài phần 2 (trung học đệ II cấp), đỗ Tú Tài phần 2
được cấp bằng, gọi là bằng Tú Tài. Người có bằng Tú Tài, nếu không học
tiếp đại học, có thể xin tuyển dụng vào nhiều việc: công chức trung cấp,
đào tạo thành sĩ quan quân đội hiện dịch …
Thi
cử không chỉ dành cho học sinh mà còn dành cho những người tự học, gọi
là thí sinh tự do. Thành phần thí sinh tự do này, bằng nhiều cách, cố
gắng học xong chương trình cấp mình muốn thi. Trong hồ sơ xin thi, có
thêm giấy chứng nhận đã dạy thí sinh hết chương trình bậc học liên quan
do một vị nào đó có trình độ cao hơn theo quy định cấp - thi Tiểu Học,
vị có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận phải có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp;
thi Trung Học Đệ I cấp, vị có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận phải có
bằng Tú Tài; thi Tú Tài, vị có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận phải có
bằng Cử Nhân.
Và
mỗi kỳ thi được tổ chức 2 lượt cách nhau khoảng trên 2 tháng (khoảng
đầu kỳ nghỉ hè và cuối kỳ nghỉ hè); lượt 2 dành cho những người không đỗ
lượt 1 hay, vì một lý do gì đó, không dự thi lượt 1 được
Theo thời gian, khi số học sinh tăng lên nhiều, do thi cử tổ chức tốn kém, các kỳ thi rút bớt hoặc bỏ dần.
Năm 1956, kỳ thi Tiểu Học bỏ. Năm 1966, kỳ thi Trung Học Đệ I Cấp (Thành Chung) bỏ.
Năm
1973, kỳ thi Tú Tài phần 1 bỏ. Như thế, sau 12 năm học (5 năm tiểu học +
7 năm trung học), học sinh chỉ còn kỳ thi cuối bậc phổ thông, gọi là
thi Tú Tài.
Đó
là nói thi cử dành cho học sinh; còn đối với những thành phần tự học,
hàng năm vẫn có tổ chức thi cử để chứng nhận trình độ học vấn từng bậc
học mà ban phát quyền lợi tương ứng cho họ.
Thi
Tiểu Học chỉ có thi viết; còn thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, thi Tú Tài
phần 1 và thi Tú Tài phần 2 gồm 2 phần: thi viết và thi vấn đáp; đỗ thi
viết mới được thi vấn đáp. Tuy nhiên, vào giai đoạn sau, phần thi vấn
đáp cũng bỏ dần - phần thi vấn đáp kỳ thi Thành Chung bắt đầu bỏ từ năm
1960; phần thi vấn đáp kỳ thi Tú Tài bỏ từ năm 1968.
Cách
làm bài thi theo hình thức “tự luận”; mãi đến năm 1974, thi “trắc
nghiệm” được đem ra sử dụng và bài thi của thí sinh được chấm bằng máy
điện toán.
Ngày
trước, thi cử khó, mức đỗ của thí sinh không cao như bây giờ (trên
90%); trường nào có mức đỗ 50% thì đã có thành tích vang dội.
Các
tân khoa có 5 cách xếp hạng: Thứ (trung bình); Bình Thứ (trung bình
khá); Bình (khá), Uu (giỏi) và Tối Ưu (rất giỏi). Đỗ hạng Thứ là may lắm
rồi, đỗ hạng Bình Thứ rất ít; đỗ hạng Bình đã là hiếm, đỗ hạng Uu thuộc
loại quý hiếm, vài ba năm mới có thí sinh đạt hạng Ưu, còn đỗ Tối Ưu, e
rằng không có.
Trong
cộng đồng, do nhiều lý do (nghèo, khả năng tiếp thu chậm…), số người đi
học ít, người đi học rất được xã hội trọng vọng, lại được sàng lọc qua
nhiều kỳ thi, vì vậy, trước đây, trình độ những người cùng cấp học không
chênh lệch nhau bao nhiêu.
Tôi viết ra những gì mình nhớ để ôn lại chuyện cũ cùng người xưa và giúp các thế hệ đến sau biết về quá khứ. Thế thôi!
02/6/2016 (27/4/Bính Thân)
(từ vhp.havu.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét