Anh Luyện đã vui vẻ trao quyển sách này cho chúng tôi sở hữu và nghiên
cứu với hi vọng có thêm những cứ liệu để công bố trước công luận và làm
bằng chứng để khẳng định chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa - Trường Sa là của
Việt Nam.
Cuốn sách này có tên “Danh hoàn Chí lược” (Sách ghi chép về địa lý Thế
giới), có khổ 20cm x 14,5cm, người giám định sách là hai tiên sinh Bích
Tinh Tuyền và Lưu Ngọc Ba. Sách do Nhà xuất bản Hòe Lý Đường in.
Nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn dịch sách Danh hoàn Chí lược
Ở trang 2 của sách ghi: “Quang Tự Mậu Tuất Mạnh Thu” (Tháng 7, năm Mậu
Tuất, niên hiệu Quang Tự, triều vua Đức Tông (Tải Điềm -1898). Cũng ngay
ở trang 2 ghi: Thượng Hải Thư Cục Đại Ấn (Thư cục Thượng Hải được cho
quyền in sách này). Bộ sách này được biên soạn vào năm thứ 28 (Kỷ Dậu,
1849), niên hiệu Đạo Quang, triều vua Thanh Tuyên Tông (Mân Ninh,
1821-1851).
Ở trang 3, 4 và trang 5 của sách có ghi bài tựa của Lưu Vận Kha, soạn
vào năm Kỷ Dậu (1849), mùa hạ tháng 4 - triều vua Thanh Tuyên Tông, niên
hiệu Đạo Quang. Bài tựa thứ 2 cũng viết vào năm Đạo Quang thứ 28, triều
vua Thanh Tuyên Tông, do Bành Uẩn Chương soạn. Bộ sách này từ khi soạn
(vào năm 1849, thời vua Thanh Tuyên Tông) phải mất 49 năm sau mới được
in (vào năm 1898), triều vua Đức Tông (Nhà Thanh) - niên hiệu Quang Tự.
Bộ sách gồm nhiều tập. Chúng tôi chỉ chú tâm tới các tập 3, 4, 5 (vì 3
tập này đóng gộp thành 1 quyển) và có ghi các đảo thuộc chủ quyền biển,
đảo của Việt Nam.
Sách Danh hoàn chí lược. Dòng chữ nhỏ bên phải ghi người giám định Bích Tinh Tuyền, Lưu Ngọc Ba. Dòng chữ nhỏ bên trái ghi Hòe Lý Đường Bản
Dòng chữ bên phải ghi Quang tự Mậu tuất Mạnh Thu. Dòng thứ hai bên trái ghi Thượng Hải thư cục đại ấn
Nội dung của sách chủ yếu tóm lược vị trí địa lý, lịch sử… của các nước
trên thế giới. Sách còn vẽ bản đồ của các nước trên thế giới: từ Trung
Quốc, Nhật Bản, Indonesia … cho đến Ả Rập.
Đặc biệt, ở trang 24, 25 của tập sách này có in tấm bản đồ Trung Quốc,
mang tên “Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ” (Bản đồ toàn quốc thống
nhất đời nhà Thanh). Trên bản đồ này đều có vẽ các nước có chung đường
biên giới với Trung Quốc, như: Việt Nam, Mông Cổ, Ấn Độ, Triều Tiên...
Đáng chú ý, ở phần biển đảo, Trung quốc chỉ vẽ đảo Quỳnh Châu (tức đảo
Hải Nam), Đảo Đài Loan (của Trung Quốc)… sau đó ghi chú là biển nhưng
không hề vẽ và ghi chú đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc. (Bản đồ
thứ 1, có ghi chú: Hoàng Thanh Nhất thống dư địa toàn đồ).
Bản đồ Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ (chưa dịch)
Bản đồ của nhà Thanh không có đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ ghi đảo Quỳnh Châu (Hải Nam) và đảo Đài Loan
Đặc biệt hơn nữa, ở tấm bản đồ in tại trang 40, 41 của cuốn sách này thì
bên cạnh việc vẽ bản đồ đường biển Trung Quốc lại có vẽ eo biển Quảng
Nam (và ghi rõ là Nam Việt - tức Việt Nam). Bên cạnh eo biển Quảng Nam,
bản đồ này còn vẽ đảo Thất Châu Dương – biển Thất Châu (cả khu vực biển
đảo Trường Sa, Hoàng Sa - Vạn lý Trường Sa. Nếu theo bản đồ Trung Quốc
thì Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc biển Thất Châu Dương - một cách gọi tên
khác mà người Trung Quốc xưa thường dùng và ghi chú trên bản đồ để chỉ
khu vực biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam (không có ghi khu vực
biển Thất Châu Dương này thuộc địa giới của Trung Quốc).
Bản đồ đã chú thích trong đó có Trường Sa, Hoàng Sa thuộc địa phận biển Việt Nam
Ở tấm bản đồ trang 55 và 56 - chủ yếu vẽ về biển, đảo và các nước giáp
Trung Quốc: biển Ấn Độ Dương (Trung Quốc gọi là Tiểu Tây Dương) và có cả
ghi chú về Ấn Độ Dương. Trên bản đồ này còn cho biết về biển và đảo
Trường Sa của Việt Nam giáp với đảo Quỳnh Châu (Hải Nam - thuộc Quảng
Châu, Trung Quốc). Vẽ cả hình tượng bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Trên
bản đồ này còn vẽ khu vực biển đảo Quảng Nam: Trong đó vẽ và ghi Thất
Châu Dương (Hoàng Sa, Trường Sa), vẽ cả cửa biển Lộc Nại của Quảng Nam
và vẽ đảo Côn Lôn của Việt Nam.
Bản đồ Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ (chưa chú thích)
Đáng chú ý ở trang 88, 89 giúp cho người đọc hiểu về luồng lạch, hướng
gió và các bãi đá ngầm ở trên các đảo Trường Sa, Hoàng Sa và phương
hướng, độ dài (tính theo cách tính canh giờ của người xưa) đi trên biển
để tới được các nước khác nếu xuất phát từ cửa biển: đảo Trường Sa của
Việt Nam.
Phần phiên âm của sách được nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn dịch như sau:
“…Sách Hải quốc văn kiến lục có nói: Vùng Nam Dương (biển phía nam) là
nơi thuyền buôn của vùng Mân Việt thường đến. Đường biển nơi đây nhiều
chỗ nguy hiểm. Người chỉ huy thuyền đi qua biển này cần phải cẩn thận.
Nguy hiểm nhất là nơi có hòn đảo Áo Khí. Thủy trình đi khoảng 7 canh giờ
từ đảo Áo Khí đến đảo Lạc Tế. Đảo này nhỏ mà bằng phẳng. Ven đảo có
nhiều đá ngầm ngổn ngang, thuyền không đến được; thu hút không khí, dòng
chảy ở bốn phía. Trên đảo có nhiều cây cỏ mọc cao hơn một trượng, có
núi Đông Sư Tượng, nếu muốn đến thì phải theo dòng nước mà đi. Không thể
đi ngược lên phía Bắc vì nhiều doi cát nổi chìm, dài khoảng 200 dặm. Đi
lên phía bắc thì có đảo và trên đảo có núi Sa Mã Kỳ. Hai ngọn núi này
đối mặt vào nhau (ngọn núi Sa Mã Kỳ và Đông Sư Tượng).
Toàn trang chữ Hán (đã dịch trong bài viết)
Theo đường thủy trình trên biển là phải đi bốn canh giờ mới tới địa đầu
Sa Mã Kỳ, lại có những doi cát liên tục ở phía nam đến Việt hải (biển
Việt) gọi là Trường Sa đầu (địa đầu Trường Sa). Cứ đi về phía nam thì
lại thấy nhiều doi cát nổi lên, theo đó mà đi thì đến Vạn Lý Trường Sa.
Phía nam Trường Sa có nhiều bãi đá ngầm lởm chởm, đi tiếp là đến biển
Thất Châu, gọi là Thiên Lý Thạch Đường. Đây là đất nguy hiểm của vùng
Nam Dương, hay có gió bão lớn ở ngoài biển, thuyền đi biển đậu ở ngoài
này thường gặp bão gió. Có những thuyền đi lạc đường mà gặp phải nơi đó
thì rất nguy hiểm. Một cửa Trường Sa nằm ở phía tây bắc cùng với đảo Nam
Áo. Ở phía tây nam là đảo Đại Tinh (Biển bình lặng¬) tạo thành thế chân
vạc ở cửa nam bắc, ước rộng phải đi chừng khoảng ngũ canh (đơn vị đo
lường thời cổ thường tính theo giờ). Thuyền buôn của người Việt thường
đậu ở đó; phía Nam là đảo Lã Tống (Lucson - Philipin), Văn Lai, Tô Lập.
Thuyền buôn thường qua mấy nước đó để trao đổi buôn bán, khi xuất phát
đều từ cửa Trường Sa mà đi. Nếu gặp gió bắc thì lấy chuẩn từ đảo Nam Áo.
Gặp gió Nam, lấy đảo Đại Tinh làm chuẩn để tới Giang Tô, Triết Giang,
Phúc Kiến (Quảng Đông). Nếu đi về phía Nam của Nam Dương phải đi từ cửa
Sa Mã Kỳ (Đài Loan) đến các nước ở Lữ Tống (Philipin), giáp phía Tây
Dương. Muốn đến Chiết Giang, Mân Việt… Nhật Bản phải đi theo hướng phía
Tây biển Thất Châu, Côn Lôn rồi đến Vạn Lý Trường Sa ngoại (ngoài Vạn lý
Trường Sa), qua cửa biển đảo Sa Mã Kỳ - đi theo đường thẳng dây cung
mới an toàn. Từ Trung Quốc mà đến nước Indonesia phải đi phía ngoài Vạn
lý Trường Sa. Nơi đây biển mờ mịt, không lấy gì làm chuẩn được cho nên
muốn đi phải theo những doi cát ở biển Việt rồi mới đến Thất Châu Dương
và từ đó đi tới Indonesia; Vùng biển này nước mênh mông nên giới hạn
cũng mênh mông…”. (Trích sách “Danh hoàn Chí lược”).
Bản đồ chưa chú thích trong đó có ghi eo biển Quảng Nam và đảo Thất Châu Dương cùng bản đồ Việt Nam
Bản đồ đã chú thích trong đó có ghi eo biển Quảng Nam và đảo Thất Châu Dương cùng bản đồ Việt Nam
Thông qua tư liệu đã nêu ở cuốn sách này, giúp chúng ta có thêm những
bằng chứng quý giá để góp phần khẳng định ngay từ thời nhà Thanh, các
bản đồ của Trung Quốc đã vẽ các đảo trên vùng biển của họ chỉ có đảo Hải
Nam, Đài Loan là gần với khu vực biển Việt Nam. Điều đó khẳng định
Hoàng Sa, Trường Sa (biển Thất Châu Dương, theo tên gọi trên bản đồ
Trung Quốc thời nhà Thanh) là thuộc chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Đặng Hùng (Hội Khoa học lịch sử Việt Nam)
Đặng Hùng (Hội Khoa học lịch sử Việt Nam)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét