Một trong những phát hiện khảo cổ học thú vị nhất của thế kỷ trước xảy ra vào năm 1947, khi hai mục đồng trẻ người Beduin, Muhamad el Dib và Ahmed Muhamad, trong lúc đi tìm một con dê bị thất lạc đã tình cờ phát hiện một bộ sưu tập các bản thảo cổ xưa trong một hang động ở Qumran.
Cách đây hơn 2.000 năm, Qumran, nằm tại điểm thấp nhất trên trái đất trong thung lũng Great Rift, là một khu dân cư thịnh vượng. Ở đây, giữa những năm 150 trước Công nguyên và năm 68 sau công nguyên, một cộng đồng người Esenieni đã tìm thấy một chỗ biệt lập, lý tưởng cho việc chiêm niệm. Xa những cám dỗ của các đô thị, nằm trên một cao nguyên đá vôi bên bờ Biển Chết, những người Esenieini sống bình lặng trong hòa bình và hòa hợp.
Khi gạt bỏ những tàn tích của khu vực, người ta đã phát hiện một tu viện Eseniane hoàn chỉnh với một hội trường lớn dành cho ăn uống và họp hành, nhà bếp và phòng giặt, bể chứa nước và một kho lớn, trong đó người Esenieni đã chép các bản Kinh Thánh và các văn bản khác trên các cuộn da tự nhiên, giấy cói và đồng.
Khi người La Mã của hoàng đế Titus Flavius Vespasianus đến Ierihon, người Esenieni đã bỏ chạy, giấu các bản thảo vào trong các hang động gần đó, và sa mạc đã giữ kín bí mặt này gần 2.000 năm.
Trở lại với câu chuyện của hai mục đồng, khi mải tìm dê, họ đã vào một số hang động và tìm thấy trong đó những mảnh bình vỡ, tám chiếc bình còn nguyên vẹn được phủ một tấm vải gai, và bán chúng cho một hàng bán đồ cổ ở Bethlehem, được gọi là Khalil Iskandar Sahin. Những người Beduin tìm kiếm kỹ hơn hang động, và đã tìm thấy các bản thảo khác. Nhận thấy rằng những gì được viết trên các cuộn giấy da là chữ syria, họ đã bàn giao chúng cho Tu viện syria St. Mark ở Jerusalem cổ.
Kể từ mùa thu năm 1947, những người Beduini và những người buôn bán đồ cổ đã bán các bản thảo cổ cho các tổ chức khác nhau ở Jerusalem. Trong tháng 12 năm 1947, Đại học Hebrew ở Jerusalem đã mua ba bản thảo, và Giáo sư E.L. Sukenik là người đầu tiên xác định được tuổi của các bản thảo này, khi nghi ngờ nguồn gốc Eseniane của chúng.
Kể từ năm 1951, người ta tiến hành lập trong khu vực Qumran một điểm khảo cổ lớn, lên đến 25 km từ Jerusalem, ở đó họ đã tìm thấy nhiều bản thảo khác. Các tài liệu phát hiện tại Qumran và khu vực xung quanh đã tạo thành một bộ sưu tập các bản thảo viết trên da, trên giấy cói hay trên các tấm đồng, phần lớn là các đoạn viết ngắn (số lượng là 40.000) trong thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, một số là trong thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, và một số trong thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo. Các bản thảo ở Qumran được viết bằng 8 ngôn ngữ và tiếng địa phương: Do Thái cổ (Kinh Thánh) Palestine Aramaica, tiếng Do Thái misnaită (nec-Hebrew), Hy Lạp, Latin, nabateica, Late Aramaica (Syro-Palestine) và tiếng Ả Rập.
Hầu hết các nhà qumranologi học (các nhà nghiên cứu làm việc với các bản thảo cổ bằng các ngôn ngữ rất cổ xưa, đã biến mất) cho rằng các bản thảo này là phần còn lại của một thư viện rộng lớn thuộc về một cộng đồng định cư bên bờ Biển Chết. Chính những người Esenieni đã cất giấu các bản thảo trong các hang động ở Qumran trong cuộc chiến tranh Do Thái chống lại người La Mã, khi Jerusalem bị phá hủy.
Những bản thảo này mang đến sự đóng góp rất quý giá cho việc tìm hiểu tốt hơn về những đặc điểm của một thời đại và của lịch sử văn hóa nhân loại nói chung. Các tài liệu phát hiện tại Qumran được lưu trữ trong hai bảo tàng ở Jerusalem, Bảo tàng Israel (Bảo tàng Quốc gia) và Bảo tàng Rockefeller.
Đối với các bản thảo, Bảo tàng Israel đã xây dựng một tòa nhà đặc biệt gọi là “Đền thờ của Sách”. Các bản thảo được giữ trong điều kiện ánh sáng tối mờ, trong một căn phòng với nhiệt độ và độ ẩm tương tự như tại các hang động Qumran.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét