Mời đọc một bài viết thú vị trên "Nghiên cứu Quốc Tế".
Nguồn: John
Humphrys, “Let me slay the big fat Greek
myth”, Sunday London
Times, 28/06/2015.
Biên
dịch: Nguyễn Đắc Thành
Với
lề thói tiêu pha và mức lương hưu trí điên rồ, người dân Hy Lạp đã tự mang đến
cuộc khủng hoảng này, đúng không? Không phải. John Humphrys đưa ra những lập
luận khách quan bảo vệ một dân tộc mà ông yêu mến và cho rằng họ đã bị phản
bội.
Khi tôi còn là một thanh niên trẻ những năm
1950, mỗi sáng Thứ Hai một kịch bản giống hệt nhau đã diễn ra ở các hộ dân lao
động như nhà tôi trên khắp quốc đảo này (nước Anh). Khi cha tôi rời khỏi nhà,
mẹ tôi lôi nồi nấu nước từ dưới gầm bồn rửa, đổ đầy nước vào và bắt đầu công
việc giặt dũ. Một tiếng sau, quần áo được bỏ ra và rũ hoặc bằng tay hoặc bằng
máy quay. Sau đó, nếu thời tiết cho phép, quần áo được phơi ra ngoài trời, hoặc
được giăng quanh nhà đợi đến khi trời dừng mưa. Một công việc nhà nặng nhọc mà
tất cả các bà mẹ đều phải vật lộn cùng với nhiều việc nội trợ khác.
Bạn
có thể hỏi điều này thì liên quan gì đến Hy lạp? Thực ra thì rất nhiều trong
bối cảnh Hy Lạp hiện nay.
Cha mẹ tôi và hàng triệu bậc cha mẹ khác đều
đã có thể mua một chiếc máy giặt – một trong nhiều đồ gia dụng thay thế sức
người đã giải phóng phụ nữ khỏi những công việc nặng nhọc thường làm cho cuộc
sống của họ buồn chán, khổ sở.
Họ nghèo, nhưng khi đó dịch vụ thuê mua đã
xuất hiện. Máy giặt, máy hút bụi hay tủ lạnh đã có thể là điều không tưởng đối
với nhiều hộ gia đình. Thay vào đó những người như cha, mẹ tôi đã đợi cho đến
khi họ tiết kiệm đủ tiền. Mặc dù điều này có thể mất nhiều năm.
Không thể tin được? Tất nhiên là ở một chừng
mực nào đó. Mẹ tôi là một phụ nữ thông minh nhưng chưa từng đọc một cuốn sách
nào đơn giản là vì bà đã quá bận với năm người con và tất cả các công việc nội
trợ. Nhưng những năm sau, khi tôi hỏi bà tại sao lại lãng phí quá nhiều cuộc
đời mình cho những công việc không cần thiết ấy, bà không một lời phàn nàn.
“Mẹ đã được dạy bảo cần phải làm như vậy” bà
nói. “Vay mượn là tội lỗi. Nếu không có tiền thì đừng mua, có thế thôi.” Cho
đến khi mất bà vẫn coi thẻ tín dụng là sản phẩm của quỷ Sa-tăng, và không chỉ
có mình bà.
Hãy xem Hy Lạp vào những năm chuyển giao thế
kỷ. Một đất nước trên nhiều phương diện cũng giống như Anh vào những năm 1950.
Mọi thứ đã xuống cấp. Họ không có khái niệm gì về chủ nghĩa tiêu dùng. Nếu bạn
muốn lắp một chiếc điện thoại tại nhà bạn sẵn sàng chờ nhiều tháng. Và thẻ tín
dụng không hề được nhắc đến. Thế hệ lớn tuổi không có cảnh nợ nần chồng chất.
Tất cả đã thay đổi kể từ nửa đêm 31/12/1998.
Đồng Euro ra đời và Hy Lạp sau đó đã trở thành một phần của khu vực đồng tiền
chung. Mọi sự xuống cấp đã biến mất. Giống như kéo một chiếc xe cũ nát lên đỉnh
đồi cao, lắp vào một động cơ siêu tốc và lướt xuống đồi với tốc độ mà Jeremy Clarkson
(đạo diễn Chương trình giải trí nổi tiếng Anh- Top Gear) cũng phải ghen tỵ. Và
sau đó đã quá muộn để nhận ra rằng xe mất phanh.
Nước Anh đã phải mất một hoặc hai thế hệ để
học hỏi cách sống với thế giới tín dụng mới. Người dân Hy Lạp đã cố gắng thích nghi
với nó chỉ qua một đêm và dễ nhận thấy là họ đã thất bại.
Hiệu ứng tức thì và dễ thấy nhất của đồng
Euro là giá cả tăng vọt. Tôi đã thường xuyên đến Hy Lạp kể từ khi con đầu của
tôi chuyển tới Thủ đô Athens
vào năm 1992. Những bữa ăn tối kèm đồ uống của chúng tôi bỗng nhiên đắt lên gấp
đôi.
Điều đó có thể dự đoán được, và đó cũng không
hẳn là cuộc khủng hoảng sống còn. Ở một tầm mức khác là những gì mà Chính phủ
Hy Lạp đã làm. Cả thế giới giờ đã biết Chính phủ Hy Lạp vay mượn và chi tiêu ở
một mức không thể hình dung nổi.
Xin hãy nhất trí với nhau ở một điểm. Điều đã
xảy ra tại Hy Lạp không phải lỗi của người dân nước này: lỗi chính là của các
nhà chính trị. Và lỗi của những kẻ giàu có (oligarchs). Người dân Hy Lạp tin
rằng khó có thể tách bạch hai tầng lớp này và họ coi thường hai tầng lớp này
như nhau. Không khó để có thể nhận thấy tại sao.
Những kẻ rất giàu đã có thể làm giàu hơn nữa
ít nhất vì hai lý do. Thứ nhất, họ trốn thuế và các chính trị gia đã không
trừng phạt họ. Thứ hai, rất nhiều tập đoàn kinh doanh đã “hớt váng” lợi nhuận
từ những hợp đồng mà các chính trị gia ban phát cho họ, những hợp đồng được
phát không khác gì việc người ta phát tờ rơi quảng cáo ở bên ngoài các bến ga
tàu điện ngầm. Điểm khác là các chính trị gia trông chờ có lại quả.
Người dân Hy Lạp đều biết có ít nhất một bộ
trưởng nội các chính phủ đã mua biệt thự sang trọng chỉ năm phút sau khi nhậm
chức. Và dân thường Hy Lạp cũng tận mắt nhìn thấy các du thuyền sang trọng đậu
ở các bến cảng và những nhà hàng được xếp hạng sao bởi hãng Michelin mà phải
đợi hàng ba tháng mới có thể đặt được bàn.
Thực tế, các quán cà phê bình dân cũng đầy
khách. Nhưng nếu bạn chịu khó quan sát kỹ hơn, bạn sẽ thấy rất ít khách hàng
dùng bữa ở đó. Thay vào đó, họ ngồi uống cà phê, giúp họ có thể ngồi hàng giờ ở
đó. Thỉnh thoảng một cặp vợ chồng cùng uống chung một cốc. Thậm chí những chủ
quán cà phê khốn khó này cũng phải giảm giá hơn một nửa.
Điều này có vẻ bất tiện nhưng việc gặp gỡ bạn
bè ở quán cà phê là một phần quan trọng trong lối sống truyền thống Hy Lạp vốn
đang bị xé vụn ra. Trên tất cả, có hai thứ gắn kết xã hội Hy Lạp trong hàng thế
kỷ qua. Hiển nhiên gia đình là yếu tố thứ nhất. Yếu tố thứ hai là tình bằng hữu
đi suốt cuộc đời, điều được gọi là “parea” (nhóm bạn thân thiết).
Hầu hết người dân Hy Lạp đều có parea của
riêng mình: nhóm nhỏ các bạn hữu, khoảng 12 người hoặc nhiều hơn, mà họ có thể
gặp gỡ ở trường phổ thông, đại học hay trong công việc đầu tiên. Họ giao lưu xã
hội thành nhóm. Nếu một thanh niên Hy Lạp vào quán bar ở Athens, nhân viên quán
rất có thể hỏi họ thuộc đám khách “parea” nào. Và sẽ rất ngạc nhiên nếu họ đi
một mình. Nhóm bạn thân thiết rất quan trọng.
Bạn của con trai tôi lại là một ngoại lệ hiếm
thấy. Một thanh niên Hy Lạp khá thành đạt rất nỗ lực để giữ được công ăn việc làm.
Điều mà anh ta đang mất đi là bạn bè thân thiết (parea). Anh ta là người duy
nhất trong nhóm còn có việc làm và do đó, là người duy nhất đủ khả năng trả
tiền cho các cuộc chơi tối. Nhưng các bạn của anh ta vì sỹ diện không cho phép
anh ta trả tiền. Do đó, anh ta tự nhiên trở nên bị cô lập với bạn bè của mình.
Sao họ lại không gặp gỡ nhau ở nhà của một ai
đó? Bởi vì các thanh niên này đều sống cùng với bố mẹ của mình. Cơ hội để cho
họ mua một căn hộ khiêm tốn nhất cũng là số không. Và những ai đã từng thuê căn
hộ ở cũng không còn đủ khả năng chi trả. Họ cũng không đủ tiền để lập gia đình
và ra ở riêng.
Natasha 27 tuổi nói với tôi: “Nếu chúng tôi
muốn quan hệ tình cảm, chúng tôi thuê phòng khách sạn một hoặc hai giờ, hoặc là
trong xe ô-tô. Một số bạn bè tôi thậm chí không đủ tiền mua bao cao su và các
bệnh lây qua đường tình dục đang tăng lên.”
Tôi không cần kiểm tra các con số thống kê để
biết điều gì đang xảy ra đối với hôn nhân gia đình. Mười năm trước, Christopher
và tôi dựng một căn nhà ở vịnh Peloponnese để
hưởng không khí tuyệt vời trừ những tối Thứ Bảy và Chủ Nhật từ tháng Năm đến
tháng Mười. Những cặp vợ chồng mới cưới trong quận tổ chức bữa tiệc cưới tối ở
đó. Và tiếng đàn Bouzouki vang vọng trên bãi biển. Thật lý tưởng cho tổ chức
tiệc nhưng quá ồn cho nghỉ ngơi. Bây giờ cả khu vực lặng im.
Còn những ai lập gia đình thì lo sợ có con
cái. Một người bạn kể với tôi rằng cô gái cô quen vất vả ngược xuôi để có con,
cuối cùng, sau khi chữa trị rất tốn kém cũng có mang. Khi bác sỹ thông báo điều
đó, cô đề nghị ông nạo thai đi. Ông bác sỹ kinh ngạc nhưng cô và chồng cô vừa
mất việc và không đủ tiền nuôi con.
Còn đây là điều mà nhiều người Hy Lạp tôi trò
chuyện cùng cảm thấy đau lòng: thông tin rằng chúng ta, những người ở các nước
giàu có hơn ở châu Âu, đổ lỗi cho người dân Hy Lạp về những điều đang diễn ra.
Chính họ đã mang đến những điều đó? Và họ đáng nhận những điều tồi tệ đó, phải
không?
Thực tế là không. Họ không làm và không đáng
nhận.
Họ chẳng phải là một lũ lười biếng sao? Làm
vài năm, đến 50 tuổi nghỉ hưu với lương hưu khủng và hy vọng rằng chúng ta sẽ
thanh toán hóa đơn. Không. Không. Không.
Hãy xem những nam thanh và nữ tú không làm
việc. Khoảng 60% người dân Hy Lạp dưới 25 tuổi không có việc làm và không thể
kiếm được việc làm. Chính sách khắc khổ áp đặt lên đất nước này đúng lúc họ rời
trường phổ thông hay tốt nghiệp đại học hay hết hạn nghĩa vụ quân sự. Như vậy
thật khó để hình dung làm sao họ có thể chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của nền
kinh tế.
Không phải họ, chắc là cha mẹ họ đã gây ra?
Đúng là cuộc sống của cha mẹ họ dễ thở hơn và lương hưu thì quá đỗi hào phóng
cho những ai đã làm việc trong khu vực công dư thừa biên chế.
Con trai tôi có một cô bạn trạc 30 tuổi khi
họ quen biết nhau. Không như các bạn khác ở tuổi đó, cô ta vẫn chưa lập gia đình
mặc dù rất muốn. Điều đã cản trở cô ấy là cô sẽ mất phần “lương hưu”, một cách
chính xác hơn, phần lương hưu của bố cô. Nếu ông chết, cô sẽ được hưởng lương
hưu đó vì là người phụ thuộc chưa có gia đình. Lạ nhưng không phải là hiếm.
Đúng là nhiều người lao động có thể nhận tiền lương
hưu từ 50 tuổi nhưng lương của họ khá khiêm tốn. Và tôi cũng tự hỏi có bao
nhiêu người dân Anh có thể từ chối việc lĩnh lương hưu sớm nếu như chính phủ
Anh cũng hào phóng mời chào họ.
Sự thực là hai đảng phái chính trị nắm giữ
quyền lực, kể từ sự sụp đổ của Chính quyền quân sự năm 1974 cho đến khi cuộc
khủng hoảng này nhấn chìm họ, đã mua chuộc dân chúng và ”cố đấm ăn xôi” như
những con bạc khát nước. Và đúng là người dân Hy Lạp đã nhận những gì họ được
mời chào mà không cần hỏi. Điều này cũng không có gì là lạ trong lịch sử Hy Lạp.
Có thể dễ dàng quên rằng Hy Lạp đã để lại di
sản quý báu về dân chủ cho Phương Tây hàng nghìn năm trước nhưng trong lịch sử
cận đại người dân Hy Lạp chỉ được hưởng những thành quả của dân chủ trong một
thời gian ngắn ngủi.
Đất nước này đã niếm trải đủ loại địa ngục
trong ký ức mới đây thôi. Sự thống trị bạo tàn không thể tả xiết của Phát xít.
Cuộc nội chiến xé vỡ toang đất nước này. Một chính quyền quân sự độc tài dã
man. Có gì là lạ khi mà người dân đã trải qua, hoặc cha mẹ của họ đã chịu những
điều tồi tệ nhất, lại vui vẻ chấp nhận những gì Nhà nước chào mời mà không lời
thắc mắc.
Nhưng cái giá của sự bàng quan của người dân
chính là mức độ tham nhũng ở mọi cấp độ. Khi ở Hy Lạp vài tháng trước, tôi có
gặp một cặp vợ chồng dễ mến, Vangelis và Mika Geroyianni, dã từng sở hữu một
công ty đại lý ô-tô. Họ thường xuyên được các vị viên chức thuế hỏi thăm, giống
như hầu hết các doanh nghiệp tư nhân thành công khác (tất nhiên là trừ các đại
gia). Các đại gia này chung chi ở đẳng cấp khác.
Vangelis bảo tôi từ khi nổ ra khủng hoảng tài
chính, các viên chức thuế cũng không viếng thăm nữa. Tôi hỏi tại sao lại vậy.
Câu trả lời là kinh doanh của anh ta bên bờ vực sụp đổ và không còn kiếm được
tiền nữa. Vậy là cán bộ thuế chả có lý do gì để đến. Như lời của anh, “nắm kẻ
có tóc, ai nắm kẻ trọc đầu.”
Những ngày xưa “tốt đẹp”, có ba loại cán bộ
thuế: cán bộ cứng rắn, cán bộ mền và ông sếp. Chả có gì phải che đậy cả. Nếu
đưa đủ, cơ sở của Geroyianni chả phải nghe gì thêm từ sở thuế. Không đưa đủ, họ
có thể phải gặp rắc rối nghiêm trọng đối với kỳ kế toán tiếp theo. Rắc rối rất
nghiêm trọng. Như kiểu ông sếp nói: quy định về thuế rất là phức tạp và có rất
nhiều vùng xám.
“Thế cô phải đưa nộp phong bì đen với tiền
mặt trong đó à?” Tôi hỏi Mika.
“Không”, cô trả lời, “không phải là phong bì…
mà là một túi to. Không phải là vài trăm Euro mà vài nghìn.”
Khi tôi kể chuyện này với một bộ trưởng chính
phủ về cuộc đối thoại trên, ông bộ trưởng chả buồn phủ nhận điều đó, chỉ lắc
đầu buồn bã và nhận xét tham nhũng cũng xa xưa như chính Hy Lạp vậy. Bạn có thể
làm gì đây?
Nhà Geroyianni vẫn cố trụ lại kinh doanh.
Nhưng họ đã phải bán căn nhà tiện nghi của mình và chuyển tới một căn hộ. Họ sa
thải hầu hết các nhân viên và thay vì một đại lý xe ô-tô khả giả trước đây thì
giờ họ điều hành một cửa hiệu sửa chữa nhỏ. Nhưng giờ đây có một chính phủ mới
và, khi tôi đang viết, không chỉ cơ sở kinh doanh nhỏ bé của họ, mà hàng nghìn
hộ kinh doanh giống như thế đang gia nhập danh sách dài phá sản; cả đất nước
này cũng phá sản.
Trong những năm tôi theo dõi viết bài về cuộc
khủng hoảng này, có một thứ không thay đổi. Một tỷ lệ lớn người dân Hy Lạp
quyết tâm ở lại trong khu vực đồng Euro. Quyết tâm đó dựa không chỉ trên nhân
tố kinh tế thuần túy. Đó còn là lòng tự hào. Những tờ Euro trong ví của người
dân Hy Lạp là minh chứng cho việc Hy Lạp đã để lại quá khứ rắc rối phía sau và
cuối cùng đã từ thế giới Thứ Ba lên thế giới Thứ Nhất. Người dân Hy Lạp ở tuyến
đầu cùng với các dân tộc châu Âu.
Các thăm dò ý kiến đều chỉ ra người dân Hy
Lạp ngày càng quyết tâm giữ đồng Euro. Nhưng tôi nghi ngờ. Mỗi lần quay lại Hy
Lạp, tôi lại cảm nhận sự thay đổi tâm trạng, ít nhất là giới trí thức trung
lưu. Trước đây họ nói với tôi: “Chúng tôi không có lựa chọn nào nếu muốn phục
hồi.” Giờ đây họ lại hỏi tôi: “Làm sao chúng tôi có thể phục hồi được nếu họ cứ
bảo chúng tôi phải liên tục cắt ngân sách, liên tục đánh thuế và đánh thuế?”.
Và cũng khó để trả lời câu hỏi này.
Điều đó thực sự khó khi mà một trong những
điều kiện mà giới chủ nợ Hy Lạp yêu cầu là tăng thuế VAT. Nó sẽ hầu như ngay
lập tức làm hạn chế du lịch nước ngoài đến Hy Lạp. Nếu có gì đó có thể cứu rỗi
cho nền kinh tế Hy Lạp trong trung hạn, đó phải là du lịch.
Nhưng những khoản cắt giảm phúc lợi mới động
chạm và gây bức xúc nhiều nhất, nhất là cắt giảm lương hưu. Những khoản hưu trí
này đã từng mang lại một cuộc sống tuổi già khá yên ổn cho những người ông và
người cha nay bị cắt giảm tới 40%. Điều đó có thể chịu đựng được. Nhưng giờ đây
không chỉ cặp vợ chồng già dựa vào những khoản lương hưu bị cắt giảm đó nữa.
Thông thường, cả con cái và cháu chắt của họ cũng dựa vào đó. Làm sao có thể
bảo những con người này chấp nhận bị cắt cả những phần thu nhập ít ỏi vốn chẳng
đủ để nuôi sống họ và con cháu họ?
Và vâng, người Hy Lạp đang đói. Trước đây,
chỉ có những người (nước ngoài) nhập cư trẻ kiếm sống bằng cách nhặc rác trên
đường phố ngoài khu căn hộ của con trai tôi. Giờ đây nhiều khả năng là cả những
người dân Hy Lạp. Thỉnh thoảng có cả những người già. Có gì đó cay đắng không
thể chịu đựng được khi nhìn một người trung niên đi lại khó nhọc trong bộ
com-plê đẹp nhất với bộ ria trắng đang bới thùng rác. Hay một quý bà ở góc phố
một tay che mặt , còn tay kia đang chìa ra xin ăn.
Làm sao có thể bảo những người như vậy rằng
họ phải chịu đựng, hy sinh để trả lại đống nợ chồng chất đã được tạo ra bởi các
nhà chính trị khi thực hiện tham vọng của mình hay các ngân hàng đầu tư đã bật
đèn xanh cho việc gia nhập đồng Euro khi mà mọi chỉ số kinh tế đều đang báo
động đỏ?
Bạn hãy trả lời tôi đi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét