năm Thương nhờ người quen, xuống Sài Gòn ghé nhắn tin là ba mẹ tôi theo chuyến tàu chở
dừa, đang neo ở bến chợ dưới đó. Cuối xuân rồi mà hai bên đường từ cầu Bến Lức xuống,
vẫn còn lưa thưa vài cụm mai vàng nở muộn. Dăm ba câu đối, đã phai màu giấy đỏ, đong
đưa hững hờ theo chiều gió sớm trước cửa hai ba căn nhà ngói cũ. Đám ruộng bên phía
đường vô Cái Bè, mùa này lấp xấp nước trơ gốc rạ. Xuống xe tại ngã ba vào chợ ngay dốc
cầu Long Định, tôi len đám đông đi nhanh xuống bến vựa. Ghe tàu đủ loại, lớn nhỏ bỏ neo
chật cứng cả một khúc sông rộng.
Giờ này nước chưa lớn mấy, đám con nít đi theo ghe tắm sông sớm, ồn ào la hét vang rân
phía sau chợ. Người lên người xuống không ngớt, nhờ một anh khuân vác, đang ngồi nghỉ
chân ngay đầu cái cầu ván mỏng, nối ghe này qua ghe kia, tôi tìm ra ghe dừa mình không
khó. Xuống tới thì ba mẹ tôi và chị năm Thương không có đó, chỉ có chú sáu Chuồng, người
lái ghe cho nhà tôi, đang quét dọn trong khoang trong. Dừa đã giao cho chủ vựa xong xuôi
rồi nên ghe trống trơn nhẹ bổng. Hai chú cháu ngồi trên mui ghe chuyện trò chờ. Nắng lên
trải dài trên sông, dăm ba đám lục bình trôi lặng lờ, theo một vài cơn sóng nhỏ loanh quanh
mạn ghe. Trời đứng gió.
Theo lời chú sáu Chuồng, xế trưa chú sẽ lái ghe về Bến Cầu. Ba mẹ tôi hình như sẽ đi xe đò
ghé Sài Gòn. Mẹ tôi tay cầm hai ba bịch cam đi trước, chị năm Thương tay xách tay quàng gì
đó ì ạch theo sau xuống. Cả hai nhìn tôi cười toe toét. Bà hỏi tôi nhiều thứ mà không cần tôi
phải trả lời. Chú sáu bỏ vào trong khoang ghe, chị năm kéo cái cửa hầm nhỏ phía trước bỏ
vội mớ đồ xuống, rồi thong thả khoát nước sông rửa tay. Hai mẹ con ngồi bên nhau, trên
mui, nhìn trời cao sông rộng không bao lâu thì ba tôi về tới. Trời đã gần giữa trưa, ba mẹ tôi
đi vòng ghe coi lại đồ đạc, dặn dò chú sáu đôi ba việc trước khi chú nhổ neo .Tôi bắt tay, từ
giã hẹn gặp lại chú ở Bến Cầu. Gia đình tôi và chị năm Thương, đi lên khỏi cuối cầu ván chợ
vựa rồi, chú sáu vẫn còn đứng trên đầu ghe nhìn theo. Bóng chú nghiêng nghiêng, nhấp nhô
theo từng con sóng, nước bắt đầu lớn.
Xe đò từ miền Tây lên, bị kẹt tại cầu Bến Lức cũng khá lâu. Trên cầu, chừng mươi anh lính
địa phương quân chạy tới chạy lui, súng bồng súng mang chỉ chỏ dưới sông. Tàu hải quân
VNCH nhấp nhô, quanh mấy đám lục bình rậm lớn, nổi lềnh bềnh quanh chân cầu xi măng.
Khách đi xe đò, nhỏ to bảo nhau, Việt Cộng gài mìn trong lục bình cho sập cầu. Trời lưng
lửng xế trưa thì đường được lưu thông bình thường. Xe đò từng chiếc chầm chậm qua cầu,
anh lính ngồi gát trong cái chòi canh đưa tay chào, cười một cách bình thản. Về đến Sài Gòn,
xuống xe đầu ngã tư Trần Quốc Toản, tôi lửng thửng đi trước, ba mẹ và chị năm Thương
thong thả theo sau, ngó quanh ngó quẩn.
Ông anh họ của Tùng về Long An từ chiều thứ sáu, nhà vắng, Tùng loay hoay quét dọn gì
đó ngoài hiên, thấy ba mẹ tôi chưng hửng, vồn vã chào tiếng một tiếng hai. Tôi chưa kịp sắp
xếp mấy túi xách, vào góc nhà cho gọn thì Tùng đã lăng xăng thúc giục ba mẹ tôi cũng như
chị năm Thương đi rửa tay rửa mặt. Trời cũng lấp xấp về chiều, ba mẹ tôi nằm nghỉ tạm
trong phòng, chị năm bắt ghế, ngồi nhìn người qua kẻ lại trên đường ra chiều thích thú. Tôi
cũng kéo ghế ngồi bên cạnh chị, chị hỏi han đủ chuyện của Sài Gòn từ xe cộ tới đèn đường.
Tùng bỏ đi đâu đó, trong nhà lặng im. Có tiếng mẹ tôi ho khan từ trong, chị năm Thương
đứng dậy đi vào. Nghe tiếng ba tôi hỏi chị năm, tôi đứng dậy, thì ông cũng vừa bước ra.
Trời hâm hấp nóng, tuy là cái nóng gượng cuối ngày, nhưng cũng vừa đủ làm oi bức. Ba tôi
ngồi xuống cái ghế chị năm ngồi khi nãy, tôi đứng tựa vào tường, bên khung cửa sổ. Vẫn
giọng nói ung dung thong thả, ông hỏi đôi câu về chuyện học hành của tôi và của Tùng cũng
như đám bạn bè, trong đó có cả Chiêu. Tuy cung cách ông không khác xưa bao nhiêu nhưng
cố nhìn kỹ thì ba tôi giờ đã già đi lắm rồi, tóc ông bạc trắng không có một chút gì lấm tấm
đen như trước ngày chú Hiếu mất. Tùng trở lại nhà có Chiêu và Thảo Ly theo. Hai cô đẩy xe
honda vào trong sân, cúi đầu chào ông, rồi đứng xớ rớ bên cạnh tôi chờ. Tôi đứng dậy kéo
hai cô vào trong nhà, Tùng ngồi xuống ghế. Chị năm liếc trộm Chiêu nhiều lần, mẹ tôi hỏi
han đủ thứ, tôi im lặng để mặc cho hai cô lời ra lời vào. Từ trong nhà, thỉnh thoảng nghe có
tiếng Tùng cười giòn giã.
Chiều xuống, trời bỗng dưng dịu hẳn, một vài cụm mây xám dật dờ ở phía bên kia sông,
che vội che vàng đôi dăm ba sợi nắng chiều về muộn. Cả nhà thả bộ ra cái quán cơm xích lô
trên đường Cao Đạt mà bọn tôi thường ăn, bà chủ tiệm thấy có người lạ chạy ra vồn vả
chào, cũng như thường lệ, bà ghé tai nói nhỏ mấy câu gì đó với Chiêu rồi cười tũm tĩm. Ba
tôi mời Tùng ly bia, Tùng không dám chối từ năn nỉ tôi chia phân nửa. Mẹ tôi ăn không nhiều
nhưng bà vui ra mặt. Thấy bà vui tôi cũng vui lây. Chị năm cứ thong thả ăn, nhìn người qua
kẻ lại. Đêm đó, gần khuya Chiêu và Thảo Ly mới ra về, tôi và Tùng ngồi lặng im trong bóng
đêm trước hiên nhà, ngọn đèn đường vàng trước căn phố, có cái truyền hình lớn vẫn lờ mờ
như xưa, bên trong nhà đã có tiếng người ngái ngủ. Hai thằng khẽ đẩy cửa vào. Trời vừa có
đôi chút gió đêm, hai ba con chó hoang sủa vài tiếng khô khan trên đường lớn. Xe vẫn còn
chạy ngoài phố dù là đã quá nửa khuya. Sài Gòn hình như chưa chịu ngủ.
Sáng chủ nhật, tôi đưa ba mẹ và chị năm ra bến xe thật sớm vì ông bà muốn đi cho kịp
chuyến xe đầu, giờ này đường xá vắng tanh, phố phường lặng im lờ mờ trong màn sương
cuối đêm lành lạnh. Gần nửa mùa xuân rồi mà trời vẫn thường nắng muộn, ngồi chờ xe
trong dãy quán cốc bên lề bến, nhìn ba mẹ tôi thong thả hớp ngụm cà phê, hơi nóng bốc lên
như khói cơm chiều, chợt dưng tôi thấy thương làm sao, cái hơi nóng mờ đục này, trong
những ngày tôi còn nhỏ xíu ở Bến Cầu. Ba tôi có thói quen thức sớm, đốt ngọn đèn dầu để
trên cái bàn hương trước hiên nhà, rồi thả bộ qua cái quán hủ tiếu của chú ba Xiêng ngồi
uống cà phê với mấy người bạn già quanh xóm. Lần nào tôi thức sớm, thì ông dẫn tôi theo,
tôi ngồi cái ghế cao kế bên, ông sớt chút cà phê sửa vào cái ly nhỏ xíu, tôi vừa ăn khúc giò-
cháo-quẫy nóng vừa uống cà phê ngon lành, cho đến khi dưới bến ghe cuối chợ, người buôn
người bán bắt đầu nhóm và cũng là lúc mặt trời chầm chậm hé lên ở phía bên kia biên giới.
Bàn bên cạnh, anh tài xế và mấy người lơ xe cũng vừa ăn uống xong, tay mồi thuốc lá
miệng mời gọi hành khách lên. Xe từ từ ra bến, quẹo hướng bồn binh ngã sáu, đèn đường
giờ này cũng vừa tắt, chị năm Thương ngồi phía cửa sổ xe vói tay vẫy chào đôi ba cái. Tôi
đứng đó nhìn theo, cho đến khi chiếc xe đò khuất mất, sau dãy nhà lầu đầu công viên. Chiếc
xe buýt sớm vừa ngừng ở trạm bên kia đường, công nhân làm ca đêm xuống đông nghẹt
bên lề. Tôi lửng thửng đi bộ về, làm quen với sáng Sài Gòn xem sao, nhất là một sáng chủ
nhật, dù là từ đây mà về tới chợ Nancy không phải là gần.
địa phương quân chạy tới chạy lui, súng bồng súng mang chỉ chỏ dưới sông. Tàu hải quân
VNCH nhấp nhô, quanh mấy đám lục bình rậm lớn, nổi lềnh bềnh quanh chân cầu xi măng.
Khách đi xe đò, nhỏ to bảo nhau, Việt Cộng gài mìn trong lục bình cho sập cầu. Trời lưng
lửng xế trưa thì đường được lưu thông bình thường. Xe đò từng chiếc chầm chậm qua cầu,
anh lính ngồi gát trong cái chòi canh đưa tay chào, cười một cách bình thản. Về đến Sài Gòn,
xuống xe đầu ngã tư Trần Quốc Toản, tôi lửng thửng đi trước, ba mẹ và chị năm Thương
thong thả theo sau, ngó quanh ngó quẩn.
Ông anh họ của Tùng về Long An từ chiều thứ sáu, nhà vắng, Tùng loay hoay quét dọn gì
đó ngoài hiên, thấy ba mẹ tôi chưng hửng, vồn vã chào tiếng một tiếng hai. Tôi chưa kịp sắp
xếp mấy túi xách, vào góc nhà cho gọn thì Tùng đã lăng xăng thúc giục ba mẹ tôi cũng như
chị năm Thương đi rửa tay rửa mặt. Trời cũng lấp xấp về chiều, ba mẹ tôi nằm nghỉ tạm
trong phòng, chị năm bắt ghế, ngồi nhìn người qua kẻ lại trên đường ra chiều thích thú. Tôi
cũng kéo ghế ngồi bên cạnh chị, chị hỏi han đủ chuyện của Sài Gòn từ xe cộ tới đèn đường.
Tùng bỏ đi đâu đó, trong nhà lặng im. Có tiếng mẹ tôi ho khan từ trong, chị năm Thương
đứng dậy đi vào. Nghe tiếng ba tôi hỏi chị năm, tôi đứng dậy, thì ông cũng vừa bước ra.
Trời hâm hấp nóng, tuy là cái nóng gượng cuối ngày, nhưng cũng vừa đủ làm oi bức. Ba tôi
ngồi xuống cái ghế chị năm ngồi khi nãy, tôi đứng tựa vào tường, bên khung cửa sổ. Vẫn
giọng nói ung dung thong thả, ông hỏi đôi câu về chuyện học hành của tôi và của Tùng cũng
như đám bạn bè, trong đó có cả Chiêu. Tuy cung cách ông không khác xưa bao nhiêu nhưng
cố nhìn kỹ thì ba tôi giờ đã già đi lắm rồi, tóc ông bạc trắng không có một chút gì lấm tấm
đen như trước ngày chú Hiếu mất. Tùng trở lại nhà có Chiêu và Thảo Ly theo. Hai cô đẩy xe
honda vào trong sân, cúi đầu chào ông, rồi đứng xớ rớ bên cạnh tôi chờ. Tôi đứng dậy kéo
hai cô vào trong nhà, Tùng ngồi xuống ghế. Chị năm liếc trộm Chiêu nhiều lần, mẹ tôi hỏi
han đủ thứ, tôi im lặng để mặc cho hai cô lời ra lời vào. Từ trong nhà, thỉnh thoảng nghe có
tiếng Tùng cười giòn giã.
Chiều xuống, trời bỗng dưng dịu hẳn, một vài cụm mây xám dật dờ ở phía bên kia sông,
che vội che vàng đôi dăm ba sợi nắng chiều về muộn. Cả nhà thả bộ ra cái quán cơm xích lô
trên đường Cao Đạt mà bọn tôi thường ăn, bà chủ tiệm thấy có người lạ chạy ra vồn vả
chào, cũng như thường lệ, bà ghé tai nói nhỏ mấy câu gì đó với Chiêu rồi cười tũm tĩm. Ba
tôi mời Tùng ly bia, Tùng không dám chối từ năn nỉ tôi chia phân nửa. Mẹ tôi ăn không nhiều
nhưng bà vui ra mặt. Thấy bà vui tôi cũng vui lây. Chị năm cứ thong thả ăn, nhìn người qua
kẻ lại. Đêm đó, gần khuya Chiêu và Thảo Ly mới ra về, tôi và Tùng ngồi lặng im trong bóng
đêm trước hiên nhà, ngọn đèn đường vàng trước căn phố, có cái truyền hình lớn vẫn lờ mờ
như xưa, bên trong nhà đã có tiếng người ngái ngủ. Hai thằng khẽ đẩy cửa vào. Trời vừa có
đôi chút gió đêm, hai ba con chó hoang sủa vài tiếng khô khan trên đường lớn. Xe vẫn còn
chạy ngoài phố dù là đã quá nửa khuya. Sài Gòn hình như chưa chịu ngủ.
Sáng chủ nhật, tôi đưa ba mẹ và chị năm ra bến xe thật sớm vì ông bà muốn đi cho kịp
chuyến xe đầu, giờ này đường xá vắng tanh, phố phường lặng im lờ mờ trong màn sương
cuối đêm lành lạnh. Gần nửa mùa xuân rồi mà trời vẫn thường nắng muộn, ngồi chờ xe
trong dãy quán cốc bên lề bến, nhìn ba mẹ tôi thong thả hớp ngụm cà phê, hơi nóng bốc lên
như khói cơm chiều, chợt dưng tôi thấy thương làm sao, cái hơi nóng mờ đục này, trong
những ngày tôi còn nhỏ xíu ở Bến Cầu. Ba tôi có thói quen thức sớm, đốt ngọn đèn dầu để
trên cái bàn hương trước hiên nhà, rồi thả bộ qua cái quán hủ tiếu của chú ba Xiêng ngồi
uống cà phê với mấy người bạn già quanh xóm. Lần nào tôi thức sớm, thì ông dẫn tôi theo,
tôi ngồi cái ghế cao kế bên, ông sớt chút cà phê sửa vào cái ly nhỏ xíu, tôi vừa ăn khúc giò-
cháo-quẫy nóng vừa uống cà phê ngon lành, cho đến khi dưới bến ghe cuối chợ, người buôn
người bán bắt đầu nhóm và cũng là lúc mặt trời chầm chậm hé lên ở phía bên kia biên giới.
Bàn bên cạnh, anh tài xế và mấy người lơ xe cũng vừa ăn uống xong, tay mồi thuốc lá
miệng mời gọi hành khách lên. Xe từ từ ra bến, quẹo hướng bồn binh ngã sáu, đèn đường
giờ này cũng vừa tắt, chị năm Thương ngồi phía cửa sổ xe vói tay vẫy chào đôi ba cái. Tôi
đứng đó nhìn theo, cho đến khi chiếc xe đò khuất mất, sau dãy nhà lầu đầu công viên. Chiếc
xe buýt sớm vừa ngừng ở trạm bên kia đường, công nhân làm ca đêm xuống đông nghẹt
bên lề. Tôi lửng thửng đi bộ về, làm quen với sáng Sài Gòn xem sao, nhất là một sáng chủ
nhật, dù là từ đây mà về tới chợ Nancy không phải là gần.
Thuyên Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét