Hụt về quê thăm cha, hụt đi coi vợ năm đó đó, cũng vì tật mê nghe thơ Bùi Kiệm. Không nhớ rõ đó là năm nào, việc có trên sáu chục năm, gần gần bảy chục, duy nhớ mại mại, hoặc đó là năm 1924, tôi tập sự thơ ký quét bia rô nơi trường máy đường Đỗ Hữu Vị cũ, nay là trường Trung học cơ khí Huỳnh Thúc Kháng, hoặc đó là năm 1926, bị vợ vừa bỏ đi lấy chồng khác, (và xin anh em cô bác đừng gọi tôi với chức tặng “học giả”, tôi thẹn lắm), duy quả nhớ năm nói đây, tôi như ngựa sút chuồng, hư không chỗ nói, xa nhà xa cha.
Ba tôi ở thị trấn Sốc Trăng, tôi buông lung tập hút thuốc điếu, tập chửi thề, tập uống bia, và sẵn được cho nghỉ bốn ngày ăn tết, tôi thừa dịp sáng 28 Tết, tôi mua vé xe định về nơi nhau rún trước thăm mấy em cũ, sau viếng Ba tôi cho tròn chữ Hiếu, nhưng đêm lại, chưa 10 giờ, tôi ra bến xe, lúc ấy xe đặt bến nơi hông chợ Bến Thành, quãng đường Viénol (nay là dường Phan Bội Châu), nhưng anh lơ xe bảo tôi: “Còn sớm, đi chơi Tết đi, còn lâu lắm xe mới chạy.” Nghe vậy, tôi bèn thả bộ qua đường gần đó là đường Amiral Courbet (nay là đường Nguyễn An Ninh), đường nầy có đến ba khách sạn chứa em út, nào Nam Hồng Phát, nào Nam Đồng Hương, nào Đỗ Văn Bính, tôi đang huýt gió đi lang thang, bỗng thấy một đám phu xe kéo kéo tay, rần rần xách gọng xe kéo theo một anh phu xe khác, anh nầy không mảy may gì là tay thiện nghệ làm ngựa người, anh ăn mặc khá sang, áo thun mới trắng xóa, tay áo dài mới toanh, đầu chít khăn bàn tàn ong xốp lưỡi đầu rìu, anh đang ngồi tréo ngoảy giữa hai gọng xe và đang nói thơ Vân Tiên, lớp Bùi Kiệm ghẹo Nguyệt Nga, mà trời đất ôi, nay nhớ lại việc năm xửa năm xưa, tôi mừng cho tôi tuy nay tuổi đã 92 trên đầu mà trí nhớ vẫn còn tinh anh, nhớ kỹ từ cử chỉ, từ giọng nói, từ điệu bộ, và tôi bỗng mê gặp anh ấy đến nỗi khi nhớ lại, khi chạy ra bến xe thì xe đã chạy mất đất từ hồi nào, bên phía chợ thì thiên hạ bán buôn mua sắm rần rần, duy một mình ên tôi, lỡ khóc lỡ cười, lỡ chuyến xe chót về nhà, lỡ bề hiếu đạo với Ba tôi, đứng tần ngần một lúc như thằng ngáo mất quần, và đành trở bước lại chỗ ban nãy, tìm và may gặp lại anh phu xe có cái giọng báo đời nầy, tôi không tiếc công tiếc áo quần, tôi ngồi xề lại trên lề đường, bắt tay gạ chuyện cùng anh, và anh nầy rất tốt bụng, sau rốt anh ríu ríu nghe lời tôi, xách gọng xe nối gót theo tôi, xít qua đường Hàng Dừa, gọi đường Lacotte, cách đó không xa, phố ông Huyện cần, là nơi tôi ở đậu, ăn cơm tháng, chủ nhà là anh Hai (Bùi Văn Khá), thông ngôn tòa án, sớm nầy anh đã chia tay đi Ô Cắp Vũng Tàu tắm biển, nhà khóa cửa mà tôi không giữ chìa, đành mời anh ấy ra áo, phủi cẳng và cùng tôi đổ xe khít sát mái hiên và cùng nhau ngả lưng vào sập ván xập xệ nơi hàng ba, không chiếu lót cũng không mùng mền, mặc cho đêm nay muỗi đốt… tôi xin thọ giáo… và nói tắt lại, dưới đây là mấy lời anh tài tử kéo xe đã thuật và tôi đã ghi kỹ càng, anh xe truyền nghề và tôi, thầy ký, đinh ninh hai đứa kết làm bạn tâm giao và quyết nối khố với nhau trong nghề ca xướng:
“Tôi tên Nguyễn Văn Thêu, quê sanh tại cầu Rạch Bần, nay là đường Cô Bắc, tôi học tối lớp Nhì (cours moyen) trường Cầu Kho, vì nghèo nên bỏ học, rất may là tôi sắm được một tập nhỏ nhà Jh-Viết “Vè Bùi Kiệm” giá sáu xu (0$06), tôi coi theo đó mà tập nói thơ giặm Vân Tiên, vả lại tôi đã từng nghe người mù miền Trung rồi, và khi tôi thấy chỗ nào có vẻ trặc họng thì tôi châm chế lại, tôi có khiếu,… và em Sển à, nay tôi thấy em cũng biết thương nghề, nên tôi không giấu nghề và quyết truyền nghề nầy lại cho em tận tình, tỷ như mở đầu thơ Vân Tiên, tỷ dụ như câu: “HỠI AI LẲNG LẶNG MÀ NGHE, GIỮ RĂN VIỆC TRƯỚC LÁNH DỀ THÂN SAU”, rõ ràng ông Đồ Chiểu, vốn đui mù và sẵn tánh xuề xòa dễ dãi, bản thảo ông đâu có và đâu còn để lại cho mà biết, cãi nhau vô ích, và theo ý riêng của tôi là Thêu nầy, tuy “Dữ” đối với “Lành” là cân xứng, nhưng xét lại, em Sển à, vậy chớ “Giữ răn” đối với “Lánh dề” thì cũng cân xứng lắm chớ, và nầy, nếu Sển có vọc hoặc có học đờn cò, em thủ cây cung, em thọc mạnh được chữ “Lánh” thật êm, rồi em kéo cây cung trở về, được ba chữ “Dề thăn sau”, thì nó êm ru bà rù, thật khoái lỗ nhĩ vừa thật êm tai, trái lại nếu em kéo cây cung về và kéo một về 4 tiếng “BÌNH BÌNH BÌNH BÌNH” (“Lành dề thân sau”) thì cây cung mất đà, không thẳng trớn, em sẽ trặc có lẽ sẽ bể cuống họng mà chớ, 4 cái “bình bình”… ấy quả lình bình, lĩnh bĩnh, làm sao cho êm tai và khoái lỗ nhĩ được? Em Sển hiểu chưa, bí quyết nhà nghề chỉ nội bao nhiêu đó, và đây, như câu “THỐT THÔI BÙI KIỆM VÀO NHÀ”, làm sao hát cho êm được và Thêu nầy, phải giặm thêm cho thật dòn, và hát thêm dài dài giựt gân như vầy: THỐT MÀ Ứ THÔI, ANH BÙI KIỆM ẢNH BƯỚC VÀO Ứ NHÀ, ẢNH THẤY MÀ NÀNG NGUYỆT MÀ Ứ NGA, đến đây phải giặm cho lẹ: LỖ TAI CHỈ ĐEO ĐÔI BÔNG NHẬN HỘT, CÓ ĐEO CÂY KIỀNG VÀNG CHẠM, BẬN CÁI ÁO LUỠNG ĐOẠN, ĐỘI CÁI KHĂN LỤC SOẠN, (hoặc) CHE CÂY DÙ LỤC SOẠN, BẬN QUẦN LÃNH LƯNG RÚT, dứt câu nầy là hết giặm, và Thêu trở lại giọng nói thơ bình thường cổ điển và hát Á KHIẾN TÂM BÀO ANH KIỆM CHẾT TÊ! và như vậy người nghe thật khoái trá quăng tiền và Thêu lượm sướng tay cho chớ… Và vả lại bài Bùi Kiệm giặm, theo anh (Thêu) là bài sau nầy dọn đường cho bài Vọng Cổ mặc sức biến chuyển để ăn khách, nhưng thôi đừng nói thêm, hát giặm, nói giặm là nghề riêng ăn đứt của người đất Bình Định, có câu: “Cọp Khánh Hòa, Ma Bình Thuận”, khuyên Sển đừng xía vào kẻo mắc kẹt, và câu chuyện hôm nay còn dài, hai đứa mình vừa gặp nhau đây là duyên kỳ ngộ bất thường, để ra giêng rồi anh sẽ dạy rành, còn nay sắp hết Tết, và mai nầy anh phải tranh thủ chạy tiền nuôi vợ nuôi con, ngủ hè, em hãy ngủ cho ngon, chúc em mọi việc được như ý, riêng Nguyễn Văn Thêu nầy, sở dĩ kéo gọng xe là để có nghề cho thằng Biện Tây hay thằng Biện Chà khỏi nắm đầu cho vào bót, chớ nào anh có kéo xe chạy một cuốc nào, nội cái việc anh rao leo: “Ai đi xe kéo chạy một chút bẻo thì tới không?” ấy là anh ghẹo chị bán chè khoai, chỉ rao lảnh lót: “Bột khoai, bún tàu, đậu xanh, nước dừa, đường cát khôông ơ ơ ơ!” làm cho ai đã ngủ cũng phải sai trẻ xách tô chén ra mua, và bây giờ anh nhớ lại trước đây tuy có một ông Lương Văn Giáo, biết nhơn đạo, không hề đi xe cho người kéo người…” Nhưng anh Thêu nói mặc anh, tôi đã đánh một giấc ngon lành từ lâu hoắc, và sở dĩ hôm nay tôi viết bài nầy là tại tôi nhớ con trai duy nhất của tôi nó quá bạc tình không về nhà và bỏ ba đứa thơ dại cho tôi nuôi, chớ nói thật tôi nào muốn thi đua tranh lèo giựt giải cùng ai. Con ôi, Ba nhớ, hãy mau về để tao trao gánh, chớ ăn rau muống hoài sao cho thấu!
Vương Hồng Sển
(viết ngày rằm tháng 10/9 novembre 92cho số xuân báo Lao Động)
Nguồn: Vương Hồng Sển, Tạp bút năm quí dậu 1993, di cảo. Nxb Trẻ
304Đen – Llttm -sgtc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét