Ngày 16/5/1919, kỳ thi Đình cuối cùng diễn ra trong Tử Cấm Thành Huế. Đề do Hoàng đế Nguyễn Hoằng Tông ra với nội dung như sau:
"Các nước trên khắp hoàn cầu sôi động nói đến văn minh. Vậy hai chữ văn minh có xuất xứ từ sách vở nào?...
Quan hệ của văn minh đến chuyện hòa bình hay chiến tranh, hưng thịnh
hay suy thoái, phân chia hay hội họp? Vấn đề khai thác và tận dụng lợi
thế về tài nguyên...
Lối khoa trường cựu học đã bỏ, chuyển sang tân học thì phép tuyển dụng
người đã tốt hay chưa? Quốc sự, quốc chính phải thay đổi do đó có nên
lập ra Hiến pháp và Hiến pháp khi lập ra có thực hiện được không? Chính
sách lập hiến và quyền pháp phải như thế nào? Làm gì để đền đáp sức dân,
giúp dân an cư lạc nghiệp, giữ gìn văn minh tiến bộ?
Trẫm vốn tài mỏng đức sơ, suy nghĩ khó được chu toàn.
Các ngươi với tài kinh luân vốn có, hãy thử trình bày rõ ràng kiến
giải của mình, không b.è ph.ái, thiên lệch, không a dua, quanh co,
xuy.ên t.ạc khiến sai sót khi đem thực hành, cũng đừng quá khéo dùng lời
lẽ bay bướm mà trống rỗng, chẳng có được phương sách gì hay, để trẫm
thu lượm rồi thử áp dụng”.
"Trẫm
nghĩ rằng quy chế cựu học đã không còn đáp ứng được điều mong muốn,
trong khi con đường tương lai của tân học đang thênh thang mở rộng trước
mắt. “Kỳ thi năm nay là khoa thi cuối cùng, đường khoa cử từ đây dứt
hẳn”.
Đó là những lời dụ của Hoàng đế Nguyễn Hoằng Tông, kết thúc nền khoa cử Nho giáo đã kéo dài gần 1.000 năm ở Việt Nam.
Sách Đồng Khánh - Khải Định chính yếu (Quốc sử quán triều Nguyễn
biên soạn, Nguyễn Văn Nguyên dịch, NXB Thời đại, 2009), phần Văn trị
trong tập Khải Định chính yếu, cho biết:
“Mùa hạ, tháng 4 năm 1918, mở khoa chính kỳ thi Hương. Cho trường
Bình Định thi chung tại Thừa Thiên, trường Thanh Hóa thi chung tại Nghệ
An”.
Sau khoa thi Hương này,
ngày 28/12/1918, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ khoa cử ở Việt Nam. Số
cử nhân đỗ ở kỳ thi Hương sẽ được thi Hội, thi Đình vào năm 1919. Với
khoa thi này, nền khoa cử nho học Việt Nam kéo dài 844 năm (mở đầu từ
khoa thi Minh kinh bác học diễn ra năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông mà
Lê Văn Thịnh là Thủ khoa) hoàn toàn kết thúc.
Ngày 1/4/1919, khoa thi Hội cuối cùng, tức khoa Kỷ Mùi được tổ chức, ngày 28/4 công bố danh sách những người trúng cách.
Sách Khải Định chính yếu viết: “Năm Khải Định thứ 4 (1919), mùa
xuân, tháng Giêng, chuẩn lấy khoa thi Hội năm nay làm Ngự tứ ân khoa”.
Vua Khải Định phê vào công văn hỏi về thể thức kỳ thi Hội của Bộ Học
rằng: "Lần này là khoa thi Hội cuối cùng của triều đình, nên trẫm muốn
gia ân cho sinh viên sĩ tử khoa mục trong cả nước, hễ ai thông thạo cả
hai thứ chữ Nho và chữ Pháp thì trình qua Bộ Học để xin vào ứng thí, lấy
tên khoa này là Ngự tứ ân khoa để sau này lập ra Hội Hàn lâm. Truyền
tuyển chọn quan Thư tịch để mở rộng đường cho kẻ sĩ".
Trước cảnh nền khoa cử Nho học sắp chấm dứt, thi sĩ Tú Xương (Trần Tế Xương) đã viết những vần thơ cảm thán:
Nghe nói khoa này sắp đổi thiCác thầy đồ cổ đỗ mau đi!Dẫu không bia đá còn bia miệngVứt bút lông đi, giắt bút chì!
Viện Cơ mật tâu xin rằng tại các tỉnh Trung kỳ, mỗi tỉnh xét cử hai,
ba người là tú sĩ tại quê quán có thực tài, đồng thời tinh thông cả chữ
Nho và chữ Pháp để đưa lên Hoàng thượng tuyển chọn. Vua phê rằng:
"Đường
khoa cử kén chọn nhân tài của nhà nước nay đã bắt đầu thực hiện cải
lương (cải cách). Trẫm cảm nghĩ đối với lớp cựu hiền thì đã hết đường
tiến mà tân học lại chưa được thuận, hoài bão ôm ấp mãi không gặp thời.
Khoa cử gần đây cũng có nhiều thiên tư, có người vì nghèo khó bức bách
mà không được tới trường, hoặc có người tới được trường thì lại không
trúng ý quan. Lại có trường hợp tài học của quan lại không bằng được
sinh viên, từ đó dẫn tới nhiều người suốt ngày ôm hận, mà nhà nước muốn
giăng lưới tuyển tài như ngày xưa cũng không được.
Nên cần để cho những người hiền bị bỏ sót trong dân cũng hiểu được ý
trẫm. Theo như lời trình trong tờ phiến thì tuy chưa hoàn toàn trúng
với ý của trẫm, những ý kiến bàn thêm đã nhất trí nên tạm chuẩn ý cho”.
Mùa hạ, tháng 4, kỳ thi Hội tiến hành xong, quan trường thi xin gia
ân lấy thêm 3 quyển thi bị thiếu điểm. Bộ Học trình lên, vua phê:
"Kỳ
thi năm nay là khoa thi cuối cùng, đường khoa cử từ đây đứt hẳn... Lần
này đặc cách gia ân cho sĩ tử được vào thi Hội là bởi trẫm thương những
người cựu học khổ công đèn sách những mong được tuyển chọn ra làm quan.
Căn cứ vào thỉnh cầu của bộ Học gia ân lấy thêm 3 quyền thi là rất hợp,
nhưng trẫm nghe nói vẫn còn 2 quyển nữa mà điểm số về văn lý cũng không
thấp hơn 3 quyển kia, vậy mà không được dự lấy thêm, như thế là chưa
công minh. Vậy truyền lấy thêm cả 2 quyển này vào cộng làm 5 quyền dâng
lên ngự lãm, đợi sẽ có chỉ gia ân riêng”.
Kỳ thi này đã chọn ra được 7 vị tiến sĩ và 16 phó bảng. Tuy nhiên,
theo phủ Khâm sứ của Pháp thông báo thì những người đỗ trong khoa thi
này, tuy vẫn còn giữ được danh hiệu, học vị cũ, nhưng sẽ không có giá
trị trong việc bổ nhiệm vào quan trường.
Bảy tiến sĩ trong kỳ thi cuối cùng này thì Nguyễn Phong Di (còn có
tên là Nguyễn Thái Bạt, người thôn Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện
Hoằng Hóa, Thanh Hóa, 31 tuổi) đứng đầu. Ông Di từng làm Lục sự ở tòa
Khâm sứ, sau đó tham gia phong trào Đông Du cùng cụ Phan Bội Châu. Người
lớn tuổi nhất trong số tiến sĩ là Bùi Hữu Hưu (40 tuổi, người Thừa
Thiên) và ít tuổi nhất là Dương Thiệu Tường (25 tuổi, người Hà Đông, nay
là Ứng Hòa, Hà Nội).
Trong
danh sách 14 Phó bảng, có hai anh em Đặng Văn Oánh và Đặng Văn Hướng
người làng Nho Lâm, xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Cụ Hướng từng
giữ chức Thị lang Bộ Công, Tham tri Bộ Hình của triều Nguyễn, rồi Tổng
đốc Nghệ An dưới chính phủ Trần Trọng Kim.
Sau cách mạng tháng Tám, cụ được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời giữ chức
Bộ trưởng không bộ đặc trách công tác ở 3 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh của
Chính phủ nước Việt Nam DCCH. Cụ Hướng là thân sinh Trung tá Đặng Văn
Việt, nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn 174 - một trong 3 trung đoàn
chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam - người được quân Pháp
kính sợ gọi là “Con hùm xám đường số 4”.
(sưu tầm)
(Nguồn: Quốc Triều Đăng Khoa Lục; Bảo tàng lịch sử
Via: The History of Vietnam)
http://nhudinhvan.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét