Khá lâu hai chữ “ăn tết” chừng như không còn làm cho những người xa nhà
xôn xao nữa, bởi không xa nhà như Nguyễn Bính, cách một hai lần đò,
chúng tôi xa nhà vạn dặm không con đò nào đưa về quê được nên nhớ nhà
chỉ còn cách duy nhất là lần về bằng trí nhớ, mà một khi trí nhớ hao mòn
thì giống như thanh tre gát trên cầu khỉ gãy ngang, gây hụt hẫng cho
người lần dò lấy nó mà đi cho dù con sông mà nó bắc ngang chỉ trong gang
tất.
Khi cái lạnh của đầu xuân phảng phất thì chừng như
những ngày tết đã cận kề. Nhớ như in về mẹ, những ngày này bận rộn nhưng
môi mẹ chừng như không ngớt mỉm cười. Gia đình sống phiêu dạt theo chân
cha trên nhiều tỉnh thành nhưng cái chất quê ngọt ngào không hề phai
trên đôi vai của mẹ. Chiều 23 Tết trong khi mọi nhà cúng kiến ông Táo về
trời thì nhà mình lại im ắng trước mâm cơm thường nhật. Sau bữa cơm mẹ
kêu mình ra thử bộ quần áo mới mẹ vừa mua, cái cảm giác thử áo theo mình
suốt bao nhiêu năm đến nỗi khi đã thành người lớn mỗi lần mua một bộ
quần áo mới lại nhớ đến mẹ, nhớ từng cái vuốt cho áo thẳng thớm, kéo bên
này phủi bên kia làm cho mình cảm thấy như được vuốt ve dưới manh áo
mới. Mùi thơm của vải là thứ duy nhất nối liền mình với mẹ cho tới nay,
nó như thứ nước hoa không thể lẫn giữa muôn ngàn loại hương thơm khác
trong đời sống.
Và từ lúc thử cho tới lúc chính thức được mặc bộ quần áo mới là cả một chuỗi ngày chờ đợi.
Cũng may, chỉ một tuần lễ là tết, sự bận bịu không chừa một ai làm thời
gian ngắn lại. Mẹ thường dẫn mình đi chợ tết vào những ngày sát tết
thường là 27 tết khi mọi thứ bớt rầm rộ và giòng người len lỏi trong chợ
ít đi. Đó là lúc mẹ chọn dưa hấu, các loại bánh mứt trên bàn thờ, thịt
heo, gà sống, củ kiệu và hàng chục món khác. Mình thích nhất là chợ hoa
trong những ngày này, những chậu mai hiền lành, những cụm vạn thọ vàng
rực một góc chợ chen với cúc, huệ, và nhiều loại hoa khác làm cho không
khí tết rực rỡ hẳn lên. Người ngắm kẻ mua chen lẫn nhau và mình chợt
nhận ra mọi người đều hiền hòa, dễ thương so với ngày thường nhiều lắm,
có lẽ mùa Tết làm cho người ta gần nhau hơn bởi ai cũng cùng chung mục
đích: “ăn tết”.
Đêm ba mươi dù buồn ngủ cách nào mình và các chị không bao giờ vào mùng
sớm vì còn xem nấu bánh tét. Cả nhà đi vô đi ra như chờ đợi một điều gì
quan trọng lắm, thì ra chờ giây phút giao thừa để được đốt phong pháo mà
cha mua về từ hôm trước. Cái thời khắc thiêng liêng ấy được chờ đợi
trong hồi hộp vì pháo nổ là tết chính thức bước vào nhà và năm cũ ra đi
dể năm mới hoàn toàn khác trở về. Những ngày tết về sau này nhà nước cấm
đốt pháo thì mình đã xa quê nhưng tâm trí cứ nghĩ về tiếng pháo giao
thừa của những ngày xưa cũ. Tiếng pháo đánh thức niềm hy vọng, hương
thơm của pháo tết lan tỏa khắp nơi làm không khí ngày tết đượm mùi gần
gũi của hàng xóm láng giềng. Pháo nổ làm cho những phiền muộn của người
nghèo tạm thời bay xa nó làm cho những gia đình khá giả biết ơn những gì
trời đất đã dành cho họ. Tiếng pháo mang nặng tâm lý cộng đồng và chính
nó làm cho người ta gần gũi nhau hơn mỗi lần tết đến.
Rồi sáng mùng một trong lành cũng đến. Mẹ đánh thức mặc cho bộ quần áo
mới, dặn dò nhiều điều mà năm trước mẹ từng dặn dò. Mọi người lục tục
kéo nhau mừng tuổi ông bà cha mẹ, những phong thơ màu đỏ đựng những đồng
tiền mới tinh lì xì cho bọn trẻ, tiếng nhạc mừng xuân bắt đầu rộn rã,
bữa ăn sáng mùng một tết được dọn ra và mọi người quây quần bên nhau
trước khi ra khỏi nhà mỗi người một hướng.
Mâm cơn sáng mùng một tết có lẽ là mâm cơm tươm tất và ngon nhất trong
năm. Mẹ và các chị đã hết sức chăm chút nó từ những ngày trước tết. Củ
kiệu và tai heo đã được ủ trong những chiếc hủ sành tính sao cho đủ độ
chua ngọt cần có khi bóc ra vào sáng đầu năm. Những khoanh bánh tét xanh
ươm màu lá nằm tròn trĩnh cạnh dĩa dưa món đầy màu sắc. Nồi thịt kho
măng vàng rực cùng với những chiếc bánh tráng đang chờ cuốn với rau sống
là món chủ lực của bữa ăn đầu năm. Tuy ngon và mát mắt như thế nhưng
không ai ăn no cả, hình như tiếng trống múa lân ngoài phố đang thúc giục
mọi người.
Trước khi xem lân, mình ghé ngang đám đông đầy tụi con nít cỡ tuổi mình
trong các sòng “bầu cua cá cọp” bên đường. Những hình ảnh trái bầu đỏ
mọng, con cua hùng tráng xanh mầu biển, con nai hiền lành đứng trên con
cá đang vẫy đuôi cùng chú gà cồ lảnh lót tiếng gáy theo sát mình suốt
mấy ngày tết. Vài đồng bạc lì xì mau chóng vào túi của nhà cái, thường
là một anh chàng trong xóm, hết tiền lại chạy đi chơi cái khác, hiếm gì
cuộc vui ngày tết hơi đâu phải phí công ngồi ngắm chú bầu con cua?
Tiếng trống múa lân làm cho bọn trẻ cỡ tuổi mình đứng ngồi không yên. Cứ
thấy ông địa lắc bụng cầm chiếc quạt rách phe phẩy là mình lại thích
thú. Con lân dưới đôi mất ngây thơ của mình thật khác thường, mắt nó
chớp giật như một con vật sống đôi lúc làm mình sợ hãi nhưng cũng đầy
thích thú. Khi nó leo lên táp túi đựng tiền lì xì của gia chủ là tiếng
trống dồn dập, tiếng hò reo cổ vũ đầy trời tạo cho không khí hừng hực
mầm sống của ngày tết Nguyên đán.
Lớn lên một chút tết vẫn còn nguyên hương vị của nó như xưa, có điều vì
lớn nên cái nhìn ngày tết của mình cũng khác. Lớn có những yêu cầu khác
với một cu con nít, tâm trí vỡ ra những hình ảnh mà ngày thường không
có, nhất là phong vị của tết, càng lớn thì người ta càng cảm nhận đầy đủ
hơn về không khí đặc biệt mà chỉ ngày tết mới có.
Đó là những cuộc đi chơi với bạn bè trong không khí ấm áp đầy hoa của
không gian ngày tết. Đây là lúc chưng diện với mọi người chung quanh để
chứng tỏ ta đã lớn, đã bước hẳn vào tuổi hoa niên đầy hoa lá chung
quanh.
Nhưng có lẽ thời khắc này chính là lúc âm nhạc cuốn hút người ta nhiều nhất.
Tết mà không có nhạc xuân thì còn gì thiếu vắng hơn. “Tấm thiệp đầu
xuân” “Xuân này con không về” cùng nhiều bài hát bất hủ khác của ngày
tết góp phần làm cho tết lý thú, gắn bó hơn giữa người nghe với
nhau…nhưng gì thì gì một bản nhạc không thề thiếu trong ba ngày tết đó
là bài “Ly rượu mừng” của Phạm Đình Chương.
Thật vậy, ca khúc Ly rượu mừng đã ăn sâu vào trí nhớ của người Việt đối
với những ai sống ở đất nước này từ năm 1975 trở về trước. Giai điệu
quyến rũ, ca từ mặn mà, hồn hậu lột tả hết nét nhân văn của một vùng đất
tuy đạn bom dày xéo vẫn không mất đi lòng thương yêu, thói quen tha thứ
và khuyến khích nhau xây dựng quê hương trong tinh thần tương ái. Là
một nhạc sĩ miền Bắc di cư vào Nam, Phạm Đình Chương mang tâm trạng xa
quê lồng vào ca khúc này với ước vọng mọi người cùng nhau xây đắp non
sông trong một ngày mai hòa bình hạnh phúc. Nhạc sĩ vượt lên mọi cám dỗ
thường trực của chiến tranh tâm lý để cho ra đời một ca khúc bất hủ cho
dân tộc. Ở đâu trên mọi vùng đất của quê hương, trong những ngày tết xa
quê người ta cũng có thể hợp ca Ly rượu mừng để nối liền những người con
xa xứ với gia đình.
Nhưng tiếc thay bài hát không thể nối được những đứa con xa quá, xa đến nỗi không con đò nào đem họ về được với quê nhà.
Nguyễn Bính chỉ từ Bắc vào Nam vài ngày đã rên rỉ:
……
Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió
Xuân này em chị vẫn tha hương
Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ
Son sắt say hoài rượu viễn phương (…)
Đêm ba mươi Tết quê người cũng
Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương….
Ông đúng là giang hồ vặt, chỉ thấy cơm sôi đã nhớ nhà, còn chúng tôi
không hề muốn giang hồ, chỉ muốn ngồi bên mộ mẹ ôn lại những ngày còn
thơ cũng không được huống chi là tết?
Tản mác khắp thế giới chúng tôi cũng cố giữ cái hồn tết của dân tộc lắm
nhưng tiếc thay cố gắng nào cũng vô ích trong suốt hơn 40 năm qua. Chúng
tôi đốt pháo nhưng không ai nghe, mua bánh tét bánh chưng chất đầy nhà
chỉ để đem đi làm trong mấy ngày được gọi là tết. Những bông hoa giả nằm
buồn bã trong góc nhà. Chai rượu đắt tiền không biết khi nào mới khui
vì bạn bè ai cũng tất bật mưu sinh không còn thời gian để nhớ tết. Trẻ
con không cần áo mới vì chúng có mỗi ngày. Chúng cũng không biết thế nào
là lì xì, là bầu cua cá cọp như chúng tôi.
Tết ở phương xa nếu có cũng chỉ ngồi trong bóng tối rồi nghe một mình ca
khúc “Xuân này con không về” để tự đánh lừa mình cho một ngày về không
được in trong lịch.
Tết, đối với chúng tôi, ngày càng xa, càng teo tóp. Nó giống như tiếng
pháo không mùi thuốc pháo vậy thì khác gì tiếng nổ trong mọi cuốn phim
hành động?
Mặc Lâm
Blog VOA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét