Các bộ 14, 15, 16, 17 nét
Như thường lệ, trước khi bắt đầu bài viết nầy, ta hãy cùng giải đoán câu đố của bài viết trước :
二人並坐, Nhị nhân tịnh tọa,
坐到二更三鼓, Tọa đáo nhị canh tam cổ,
一畏貓兒一畏虎。 Nhất úy miêu nhi nhất úy hổ.
坐到二更三鼓, Tọa đáo nhị canh tam cổ,
一畏貓兒一畏虎。 Nhất úy miêu nhi nhất úy hổ.
Có nghĩa :
Hai người cùng ngồi với nhau,
Ngồi cho đến canh hai ba hồi trống đổ,
Một người sợ mèo, một người sợ hổ !
Giải Đáp :
Để giải đáp câu đố nầy, mời tất cả cùng nghe giai thoại sau đây :
Tương truyền, vào giữa những năm Hoằng Trị triều Minh, ở đất Quỳnh Sơn
tỉnh Quảng Đông có một học giả tên là KHƯU TUẤN ( 1421-1495 ), tự là
Trong Thâm, đậu Tiến Sĩ năm Cảnh Thái thứ 5, làm quan đến chức Lễ Bộ
Thượng Thơ, Văn Uyên Các Đại Học Sĩ. Thế mà xém chút nữa đã bị thua một
cô gái nhà quê con chủ quán. Truyện kể ...
Một đêm, khi Khưu Tuấn đang ở trong một quán trọ. Chủ quán có một cô con gái rất thông minh, lại giỏi văn chương, nghe tin có Văn Các Đại Học Sĩ đến, bèn xin ra mắt. Sau khi đàm luận có ra cho ông một câu đố như thế nầy :
Một đêm, khi Khưu Tuấn đang ở trong một quán trọ. Chủ quán có một cô con gái rất thông minh, lại giỏi văn chương, nghe tin có Văn Các Đại Học Sĩ đến, bèn xin ra mắt. Sau khi đàm luận có ra cho ông một câu đố như thế nầy :
二人並坐, Nhị nhân tịnh tọa,
坐到二更三鼓, Tọa đáo nhị canh tam cổ,
一畏貓兒一畏虎。 Nhất úy miêu nhi nhất úy hổ.
坐到二更三鼓, Tọa đáo nhị canh tam cổ,
一畏貓兒一畏虎。 Nhất úy miêu nhi nhất úy hổ.
Khưu
Tuấn nghĩ ngợi hèn lâu, ông đang cân nhắc giữa câu hai người ngồi ngang
nhau, có thể là 2 chữ " Nhân 人 " mà lại một người sợ mèo một người sợ
cọp, thì không phải là " 2 người " nữa, mà là 2 con vật gì đó. Con gì sợ
mèo ? Là CÁ là NGƯ 魚. Con gì sợ cọp ? Là DÊ là DƯƠNG 羊. NGƯ 魚 và DƯƠNG
羊 ghép lại cho " ngồi chung " với nhau là chữ TIÊN 鮮 là Tươi
Ngon. Chắc ăn như bắp, suy nghĩ xong, ông bèn vuốt râu mĩm cười nói ra
đáp án.
Nào
ngờ, cô gái cũng mĩm cười lắc đầu bảo : " Sai rồi !". Ông ngạc nhiên
hỏi : " Sao lại sai ? ". Cô gái đáp : " Thế thì ông giải thích thế nào
về câu : Tọa đáo nhị canh tam cổ ? ( Ngồi cho đến canh hai ba hồi
trống đổ ). Khưu Tuấn xịu mặt trầm tư, chợt ông tỉnh ngộ ra, vổ đùi đánh
đét một tiếng bảo rằng : " Phải rồi ! Canh hai là giờ HỢI 亥, còn Ba hồi
trống đổ là Canh ba giờ TÝ 子. Ghép chữ TÝ 子 với chữ HỢI 亥 lại với nhau,
ta có chữ HÀI 孩 là Hài Nhi phải không ?! Cô gái gật đầu cười đáp : "
Đúng vậy ! TÝ là Chuột sợ mèo; HỢI là Heo sợ Cọp !".
Khưu Tuấn khen lấy khen để, cho đây là câu đố thật tuyệt vời !
Tượng đài và khu mộ chí của Khưu Tuấn
Trong Giai Thoại Văn Chương Việt Nam ta cũng có một câu đối tương tự của bà Đoàn Thị Điểm ra cho ông anh Đoàn Viết Luân khi bà chị dâu nửa đêm sanh con trai là :
Bán dạ sanh Hài, Hợi Tý nhị thời vị định.
半 夜 生 孩, 亥 子 二 時 未 定;
半 夜 生 孩, 亥 子 二 時 未 定;
Có nghĩa :
Nửa đêm sanh con, giờ Hợi hay giờ Tý còn chưa định;
Đây là câu đối chiết tự : chữ HÀI 孩 là do chữ TÝ 子 và chữ HỢI 亥 ghép lại mà thành. Tý Hợi là 2 ngôi trong 12 Địa Chi.
Ông Đoàn Viết Luân đã đối lại rất khéo là :
Lưỡng tình tương phối, Tỵ Dậu tương hợp nãi thành.
兩 情 相 配, 巳 酉 相 合 乃 成。
Có nghĩa :
Hai tình phối hôn với nhau, do Tỵ Dậu hợp nhau mà thành.
Chữ
PHỐI là Hôn Phối 配 là do chữ TỴ 巳 và chữ DẬU 酉 ghép lại mà thành. Tỵ và
Dậu cũng thuộc 2 ngôi trong 12 Địa Chi. TỴ DẬU SỬU lại nằm trong TAM
HỢP của Tử Vi Đẩu Số.
( Đúng ra chữ PHỐI 配 là do 2 chữ DẬU 酉 và KỶ 己 ghép lại mà thành. Nhưng
Dậu là ngôi thứ 10 của Địa Chi; còn KỶ là ngôi thứ 6 của Thiên Can, nên
không thể đối với HỢI TÝ ở trên được. Nhưng trong văn chương xướng họa,
đôi lúc cũng phải biết linh động, mượn chữ nầy để xài cho chữ kia, mượn
âm kia để thay cho âm nọ. Ở đây ông Luân đã mượn chữ TỴ 巳 để thay cho
chữ KỶ 己 vì hai chữ có tự dạng giống nhau ... ).
1. BỘ TỊ 鼻 : ( 14 nét )
TỊ 鼻 : là Cái MŨI. TỊ 鼻 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Nét bút Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư
筆劃
|
甲骨文
| 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của cả cái mũi
được vẽ cách điệu từ xống mũi đến phần lổ mũi và cả phần nhân trung ở
trên miệng nữa. Cái Mũi cũng là một phần chính của khuôn mặt, nên ta mới
có từ MẶT MŨI để chỉ cả khuôn mặt. Ta còn có các từ :
鼻子 TỊ TỬ : là Cái Mũi, 鼻梁 TỊ LƯƠNG : là Xống mũi; 鼻尖 TỊ TIÊM : là phần
chóp mũi; 鼻翼 TỊ DỰC : là 2 cánh mũi; 鼻孔 TỊ KHỔNG : là 2 cái lổ mũi; 鼻涕
TỊ THẾ : là nước mũi ...
鼻息如雷 TỊ TỨC NHƯ LÔI : Hơi thở từ lổ mũi vang như sấm, ta nói là Tiếng Ngáy như Sấm vang.
鼻祖 TỊ TỔ : là Thuỷ Tổ, là ông bà ông vãi tự ngày xưa.
開山鼻祖 KHAI SƠN TỊ TỔ : là Ông Tổ lập ra một dòng họ hay một môn phái nào đó.
Khi dịch các từ của Phật giáo từ tiếng Phạn, thì TỊ 鼻 được đọc là TÌ,
như trong từ A TÌ ĐỊA NGỤC 阿鼻地獄 (Avīci Niraja) : Nơi giam giữ các hồn
người đã chết để luận công luận tội.
A TÌ ĐỊA NGỤC 阿鼻地獄
Có tất cả 50 chữ được ghép bởi bộ TỊ 鼻, tiêu biểu có :
HÃN 鼾 : là Tiếng ngáy khi ngủ. Thành ngữ " Tiếng ngáy như sấm ", còn được nói thành HÃN THANH NHƯ LÔI 鼾聲如雷.
2. BỘ TỀ 齊 :
TỀ 齊 : là Ngang Bằng. TỀ 齊 là chữ Tượng Hình, theo diễn tiến của chữ viết như sau :
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình của những cây lúa, cây mạch, cây bắp mọc san sát
ngang bằng nhau, đến Kim Văn Đại Triện thì vẽ cách điệu so le cho đẹp
mắt, và đến Tiểu Triện thì lại thêm 2 vạch bên dưới tượng trưng cho mặt
đất chỗ cao chỗ thấp. Nên TỀ 齊 là Ngang bằng nhau, là ngay hàng thẳng
lối. Như :
TỀ THIÊN 齊天 : là Ngang bằng với Trời.
Con
khỉ đá Tôn Ngộ Không sau khi tu luyện được phép tiên thất thập nhị
huyền công thì đòi làm TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH 齊天大聖 có nghĩa là : " Ông Thánh
sánh ngang bằng Trời ". Nghe như có vẻ ngông cuồng, nhưng thực tế ở đời
cũng có lắm người muốn có cái gì đó to lớn bằng Trời, nên ta mới có
thành ngữ :
PHÚC THỌ TỀ THIÊN 福壽齊天 : là Phước và Thọ đều sánh ngang bằng với Trời.
HỒNG PHÚC TỀ THIÊN 鴻福齊天 : Có nghĩa là : Cái phúc lớn sánh ngang bằng
trời. HỒNG PHÚC 鴻福 là Cái Phúc to lớn, còn được viết như thế nầy 洪福.
Nghĩa cũng như nhau.
HỒNG 鴻 nầy là Chim Hồng, loài chim to lớn và bay cao nhất.
HỒNG 洪 nầy là Con nước to lớn, nước lũ, nước lụt.
TỀ
MY 齊眉 : là Ngang Mày, nói tắt của thành ngữ CỬ ÁN TỀ MY 舉案齊眉 : ÁN 案 là
Cái Mâm có chân, nên Cử Án Tề My là " Nâng cái mâm ngang với chơn mày, ý
chỉ sự kính trọng, theo tích sau đây :
Lương
Hồng người thời Đông Hán, tự là Bá Loan, ở đất Bình Lăng ( thuộc thành
phố Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây hiện nay ), nhà nghèo học giỏi, khi học
xong Thái Học Sinh, không muốn làm quan, về quê cày ruộng , sống cảnh
thanh bần. Địa chủ họ Mạnh trong huyện có cô con gái là Mạnh Quang rất
giỏi thi thơ, chê đám công tử thanh niên trong huyện hời hợt, nên kén
chồng đến năm 30 tuổi mà vẫn phòng không. Nghe tiếng Lương Hồng là người
thanh cao nên mới cùng chàng kết duyên phu phụ. Vợ chồng cùng về ẩn cư ở
vùng đất Lăng Sơn, tuy cuộc sống thanh bần, nhưng vợ chồng luôn luôn
Tương Kính Như Tân 相敬如賓 là kính trọng lẫn nhau như đối với khách vậy.
Mỗi lần chồng làm lụng vất vả về nhà, khi dọn cơm ra cho chồng ăn, nàng
Mạnh Quang luôn luôn bưng mâm cơm cao đến ngang mày mà dâng lên, Lương
Hồng vội đỡ lấy để xuống rồi vợ chồng mới ngồi vào cùng ăn.
Nên
CỬ ÁN TỀ MY 舉案齊眉 chỉ vợ chồng luôn luôn thương yêu kính trọng lẫn nhau.
Sau nầy dùng rộng ra để tỏ sự kính trọng đối với người khác khi đưa một
vật gì đó cũng nâng lên ngang mày, như chàng Kim Trọng khi muốn
nghe Thúy Kiều đờn đã nâng cây nguyệt cầm lên dâng cho nàng vậy :
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng sinh đã tay nâng NGANG MÀY.
Nàng Mạnh Quang CỬ ÁN TỀ MY
Ngoài nghĩa NGANG ra, TỀ 齊 còn có nghĩa là CÙNG, như :
TỀ DANH 齊名 : là Cùng nổi tiếng như nhau.
CHUNG CỔ TỀ MINH 鐘鼓齊鳴 : là Chuông trống cùng vang lên.
NHẤT TỀ TIỀN TẤN 一齊前進 : Cùng nhau tiến về phía trước.
TỀ TÂM HIỆP LỰC 齊心協力 : Cùng chung lòng cùng chung sức.
TỈ DỰC TỀ PHI 比翼齊飛 : là Chắp cánh cùng bay.
Năm 666, Diêm Bá Dư đến nhậm chức Đô Sát ở Hồng Châu, nhân tiết Trùng
Cửu ( Mùng 9 tháng 9 Âm lịch ) mở đại yến ở Đằng Vương Các để chiêu đãi
tân khách, vì muốn khoe tài con rể là Ngô Tử Chương, Diêm đã cho Chương
làm sẵn một bài Tự về gác Đằng Vương được gọt dũa thật mượt mà hoa mỹ,
rồi trong bửa tiệc phát giấy bút cho tất cả văn thi nhân để cùng làm một
bài văn về Đằng Vương Các.
Lúc
bấy giờ Vương Bột, mới 16 tuổi, một trong Sơ Đường Tứ Kiệt sau nầy,
đang ở xa ngoài 700 dặm lại bị Mã Đương sơn cách trở, nhưng nhờ thuyền
gia cho biết là nếu đi đường thủy thì có thể đến nơi kịp lúc. Bột nghe
theo, qủa nhiên đêm hôm đó, trời nổi gió lớn, nên sáng hôm sau thì
thuyền đã cặp bến Đằng Vương Các kịp lúc tiệc rượu mới bắt đầu. Vì tích
này mà ta mới có câu :
Thời lai phong tống Đằng Vương Các 時來風送滕王閣.
Có nghĩa :
Khi thời cơ đến thì gió sẽ đưa đến gác Đằng Vương.
Khi bước chân vào tiệc, người chưởng quản không muốn phát giấy bút cho
Bột, vì thấy chàng là một thằng bé mới lớn lại xấu trai vô cùng, nhưng
vì đã lỡ có lời hứa trước, nên miễn cưởng phát giấy bút cho chàng, nhưng
lại cử người theo dõi đứng kề bên Bột, hễ chàng viết xong câu nào thì
chép lại câu đó trình cho chủ nhân xem. Nếu thấy viết chẳng ra gì thì sẽ
tống cổ ra khỏi cửa ngay. Nhưng không ngờ càng xem lại càng ngạc nhiên,
không ngờ lại có một văn tài hiếm thấy như thế, kịp đến câu :
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, 落霞與孤鶩齊飛,
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. 秋水共長天一色.
Có nghĩa :
Ráng chiều cò trắng cùng bay,
Xanh lơ trời nước nước mây một màu !
thì Diêm công phải vổ bàn khen là tuyệt cú, khi đọc xong bài viết của
Vương Bột thì ... Diêm Bá Dư dấu nhẹm luôn bài văn của con rể không dám
chìa ra, vì so với Đằng Vương Các Tự của Vương Bột thì "nó" còn thua xa !
Và...
Vương Bột nổi tiếng khắp nước luôn từ đấy !
Đằng Vương Các Tự với " Lạc hà dữ cô vụ tề phi..."
TỀ 齊 còn có nghĩa là Đạt được, Đạt đến. Bài đầu tiên của Minh Tâm Bửu Giám có câu :
Kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh giả.
見 賢 思 齊 焉, 見 不 賢 而 內 自 省 也。
Có nghĩa :
Thấy người giỏi thì nên nghĩ là làm sao cho Đạt Được như người ta, thấy
người không giỏi thì nên tự phản tỉnh xem mình có cái dở như người đó
không, để ráng mà sửa đổi để cầu tiến !
Có tất cả 6 chữ được ghép bởi bộ TỀ, tiêu biểu có chữ :
TRAI 齋 : là Thư phòng, là Trường học, là Tiệm là Quán ăn. Như
THƯ TRAI 書齋 : là Phòng đọc sách, là Nơi học tập của các thư sinh ngày
xưa, nên THƯ TRAI tiếng Triều Châu có nghĩa là Trường học.
LIÊU TRAI 聊齋 : là Thư phòng vắng vẻ, thường ở xa nhà nơi yên tịnh để cho tiện việc học hành.
LIÊU
TRAI CHÍ DỊ 聊齋誌異 : là Ghi chép lại những chuyện lạ nơi thư phòng vắng
vẻ. Đây cũng là tựa của quyển truyện ma quái chồn tinh rất nổi tiếng của
Bồ Tùng Linh ở cuối đời Minh đầu đời Thanh. Vì quyển truyện nầy mà ta
có từ " Liêu Trai " để chỉ những chuyện chồn tinh ma quái diễm tình hay
để diễn tả cái không khí ma quái nên thơ nhưng lại làm cho rợn người của
những nơi chốn nào đó.
PHẠN TRAI 飯齋 : là Phòng ăn chay, Tiệm bán cơm chay.
TRAI PHẠN 齋飯 : là Cơm chay, là thức ăn của những người tu hành hoặc phát nguyện ăn chay.
TRAI
GIỚI 齋戒 : là tục lệ xưa, trước khi cúng tế thần thánh phải tắm gội sạch
sẽ, không được uống rượu, không được ăn mặn, không được ngủ với vợ để
chứng tỏ lòng thành của mình. 史记·廉颇蔺相如列传 theo Sử Ký- Lạng Tương Như-Liêm
Pha liệt truyện : Triệu Vương thời Chiến Quốc phải TRAI GIỚI năm ngày
để tỏ lòng thành khi đưa Lạng Tương Như mang ngọc Bích sang Tần.
TRAI TĂNG 齋僧 : là thực phẩm dùng để cúng Phật và cho các hòa thượng ni cô ăn.
BỘ 15 nét.
1. BỘ XỈ 齒 :
XỈ 齒 : là Răng. XỈ 齒 là chữ Tượng hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Giáp
Cốt Văn và Kim Văn đều là hình tượng của 2 hàm răng trong
miệng, đến Đại Triện và Tiểu Triện thì được chồng thêm bộ CHỈ 止 ở trên
đầu để chỉ âm đọc theo cách tạo chữ của Hài Thanh thời Chiến Quốc. XỈ 齒
là Răng, từ kép là NHA XỈ 牙齒 : Ta nói là Răng cỏ. Thật ra, NHA 牙 : là
Răng phía trước đến Răng Nanh, XỈ 齒 : là Răng Cối, Răng Hàm.
XỈ 齒 còn dùng để chỉ vật gì có Răng, như :
LUÂN XỈ 輪齒 : là Răng của bánh xe, bánh sắt có răng.
CỨ XỈ 鋸齒 : là Răng của cây cưa, ta nói là Răng Cưa.
Một số Thành ngữ có chữ XỈ 齒 của tiếng Hoa rất gần gũi với tiếng Việt, như :
THẦN HỒNG XỈ BẠCH 唇紅齒白 : Môi hồng răng trắng, ta nói là " Răng trắng môi son ".
LINH NHA LỢI XỈ 伶牙俐齒 : là Răng cỏ lanh lợi, ta nói là Miệng Lưỡi Lanh Lợi hay Mồm Năm Miệng Mười.
THẦN VONG XỈ HÀN 唇亡齒寒 : Môi mất đi thì răng bị lạnh, ta nói là : Môi Hở Răng Lạnh. Theo tích sau đây :
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Tấn Hiến Công 晉獻公 của nước Tấn muốn đánh nước
Hoắc 虢國, nhưng nước Ngu 虞國 lại nằm giữa hai nước. Tấn Hiến Công mới
nghe theo lời của mưu thần là Tuân Tức, dùng ngọc quý và ngựa báu tặng
cho vua nước Ngu để mượn đường đánh Hoắc. Vua nước Ngu thấy ngọc đẹp
ngựa quý thì đồng ý ngay. Cận thần là Đại Phu Cung Chi Kỳ 宮之奇 can rằng :
" Không nên, không nên ! Nước Ngu của ta và nước Hoắc là 2 nước nhỏ
liền nhau, nương tựa với nhau mà tồn tại, như môi với răng vậy, hễ môi
hở thì răng lạnh, nên việc cho Tấn mượn đường để đánh Hoắc là việc không
nên bao giờ, đại vương chớ khá nghe theo !" Vua Ngu vì tham của báu nạt
rằng : " Tấn là nước lớn, nay lại hạ mình tặng ngọc quý ngựa báu để
mượn đường, chả lẽ ta lại hẹp hòi mà từ chối hay sao ?". Cung Chi Kỳ bỏ
ra buông tiếng thở dài : " Nước Ngu ta sẽ mất trong nay mai mà thôi !".
Bèn dắt díu vợ con bỏ đi nước khác.
Qủa nhiên, sau khi tiêu diệt nước Hoắc, trên đường về Tấn Hiến Công bắt
trói vua Ngu và nhập nước Ngu vào luôn nước Tấn của mình.
Mượn đường diệt Hoắc : Môi hở răng lạnh.
Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
Bình sinh mạc tác trứu mi sự, 平生莫作皺眉事,
Thế thượng ưng vô THIẾT XỈ nhân. 世上應無切齒人.
Có nghĩa :
Trong đời sống hằng ngày, đừng làm những chuyện khiến người ta phải
nhăn mày, thì trên đời nầy cũng sẽ không có ai NGHIẾN RĂNG NGHIẾN LỢI
với ta cả !
THIẾT 切 : Có bộ ĐAO 刀 bên phải, có nghĩa là XẮC. THIẾT XỈ 切齒 là 2 hàm
răng XẮC vào nhau, nên có nghĩa là NGHIẾN RĂNG khi thù hận hoặc giận dữ
ai đó hoặc chuyện gì đó.
Có tất cả 45 chữ được ghép bởi bộ XỈ nầy, tiêu biểu có :
LINH 齡 : là Tuổi. Từ kép là NIÊN LINH 年齡 : là Tuổi Tác.
PHƯƠNG LINH 芳齡 : là Tuổi Thơm, dùng để chỉ tuổi tác của các cô gái mới lớn chưa chồng.
CAO LINH 高齡 : là Những cụ già tuổi tác đã cao.
HẠC LINH 鶴齡 : là Tuổi Hạc. Tuổi mà tóc đã bạc trắng như con hạc trắng,
thường dùng để chỉ những người từ 80 tuổi trở lên. Lúc Vương Viên
Ngoại " Liều mình ông đã gieo đầu tường vôi ", thì Kiều mới nhỏ to tìm lời khuyên can là :
Cỗi xuân TUỔI HẠC càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành ...
BỘ 16 nét,
1. BỘ LONG 龍 :
LONG 龍 : là Rồng. LONG 龍 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Rồng là con vật thần thoại, đầu lân mình rắn, có 4 chân như thú, lại có
vẩy như cá, có thể đi trên bờ, lội dưới nước, bay lên mây làm mưa làm
gió ... Nên Tượng Hình của con rồng từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Triện
cũng vừa như rắn, vừa như cá, vừa như thú. Đến Tiểu Triện thì mới có
dạng của chữ viết, nhưng vẫn mang Hình tượng nhe nanh múa vuốt như ...
Rồng !.
Rồng là LONG 龍 không có thật, nhưng KHỦNG LONG 恐龍 lại là một loại sinh
vật có thật ở thời cổ đại. Rồng ở Trung Hoa là một linh
vật đứng đầu trong Tứ linh : LONG, LÂN, QUI, PHỤNG. Rồng còn tượng trưng
cho nhà vua, nên tất cả mọi thứ có liên quan đến Vua đều có chữ LONG đi
kèm như :
LONG NHAN 龍顏 : là dung nhan của nhà vua, là Mặt vua. LONG THỂ 龍體 : là
thân thể của vua. LONG BÀO 龍袍 : là Áo của vua mặc. LONG XA 龍車 : là Xe
của vua đi ...
Mặc dù là con vật trong thần thoại, nhưng Thành ngữ có chữ LONG trong cuộc sống thường ngày cũng nhiều vô kể, như :
XA THỦY MÃ LONG 車水馬龍 : là Xe như nước chảy, ngựa tợ rồng bơi, để chỉ cảnh phồn hoa đô hội, nhộn nhịp ngựa xe. Ta nói là :
Ngựa xe như nước, áo quần như nen.
LONG ĐÀM HỔ HUYỆT 龍潭虎穴 : là Đầm rồng hang cọp, dùng để chỉ những nơi hung ác hiểm trở.
NGỌA HỔ TÀNG LONG 臥虎藏龍 : là nơi Rồng nằm hổ phục, chỉ những nơi ẩn chứa
những nguy hiểm hung ác mà bình thường không thể nhìn thấy trước được.
LONG TRANH HỔ ĐẤU 龍爭虎鬥 : Chỉ 2 thế lực hoặc 2 lực lượng ngang bằng nhau mà quyết hơn thua với nhau.
Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
Long du thiển thủy tao hà hí, 龍游淺水遭蝦戲,
Hổ lạc bình dương bị khuyển khi. 虎落平陽被犬欺.
Có nghĩa :
Rồng mà lội ở nơi nước cạn thì bị tôm tép giởn mặt, còn...
Cọp mà lạc xuống đồng bằng thì cũng bị lũ chó dễ ngươi !
Cá chép hóa rồng là chỉ sự thành công vượt bực, một sự lột xác đổi đời mà ai ai cũng mong muốn, nên ta lại có thành ngữ :
VỌNG TỬ THÀNH LONG 望子成龍 : là Mong ước con được hóa rồng. Câu nầy nói
lên mong ước của các bậc cha mẹ đối với con cái, mà cũng có thể dùng để
chúc cho người khác nữa.
Có tất cả 12 chữ được ghép bởi bộ LONG nầy, tiêu biểu có :
BÀNG 龐 : có nghĩa là To lớn, ta có thành ngữ:
BÀNG NHIÊN ĐẠI VẬT 龐然大物 : Chỉ vật gì hoặc con gì đó to lớn hơn kích cở bình thường.
BÀNG 龐 còn dùng để chỉ khuôn mặt, như DIỆN BÀNG 面龐 là Gương mặt.
BÀNG 龐 còn là một trong Bách Gia Tính, họ BÀNG : như BÀNG ĐỨC 龐德 tự là
Lệnh Minh, tướng của Mã Đằng thời Tam Quốc. Sau theo Tào
Tháo, được phong đến chức Quan Môn Đình Hầu.
BÀNG QUYÊN 龐涓 : Danh tướng nước Ngụy thời Chiến Quốc, cùng Tôn Tẫn theo
học binh pháp với Quỷ Cốc Tử. Quỷ Cốc Tử có 4 môn sinh nổi tiếng đó là :
Bàng Quyên, Tôn Tẫn, Tô Tần và Trương Nghi
được gọi là QỦY CỐC TỨ HỮU
2. BỘ QUY 龜 :
QUY 龜 : là Con RÙA. QUY 龜 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết sau đây :
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng của con rùa
không chối cải vào đâu được. Cho đến Tiểu Triện đã hình thành chữ viết
hẵn hoi rồi, nhưng vẫn còn thấy được mang máng hình dáng của con rùa.
nên QUY 龜 là từ chỉ chung các loại Rùa, Ba Ba, Đồi Mồi, Cua Đinh ...
RÙA cũng là một trong Tứ Linh : Long Lân QUY Phụng. Rùa có rất nhiều
chủng loại, nhưng ta chỉ phân biệt 2 loại trong văn học là : KIM QUY 金龜 :
Rùa Vàng và Ô QUY 烏龜 : Rùa Đen.
KIM QUY 金龜 : Rùa Vàng, tượng trưng cho vinh hoa phú quý. Theo Sử Ký,
vao đời Hán làm quan từ Ngũ phẩm trở lên đến các Tướng quân, Thừa
Tướng, Chư Hầu ... Ấn tín đều có đúc một con Rùa Vàng ở bên trên tay
cầm. Đến đời Đường rùa vàng được thêu trên các túi gấm đeo bên mình của
các quan từ Tam phẩm trở lên, nên Rùa Vàng là biểu tượng của quyền qúy
giàu sang, từ đó ta có thành ngữ : KIM QUY TẾ 金龜婿 : Có nghĩa là Chàng rể
qúy, cũng có nghĩa là Có chồng giàu sang, và lại phát sinh thêm thành
ngữ : ĐIẾU KIM QUY 釣金龜 : là Câu Rùa Vàng, tức là tìm cách để có được một
tấm chồng giàu sang quyền qúy. Hai thành ngữ nầy vẫn còn rất thông dụng
đến hiện nay. KIM QUY TẾ hiện nay chính là các Bác sĩ, Kỹ Sư, Thạc Sĩ,
Tiến Sĩ ... đó vậy. Tuy vậy, chớ nhiều khi có chồng là " Rùa Vàng " chưa
chắc đã hạnh phúc, như bài thơ Vị Hữu của Lý Thương Ẩn đời Đường như
sau :
VỊ HỮU 爲 有
Vị hữu vân bình vô hạn kiều,
爲有雲屏無限嬌,
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu.
鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc kim quy tế,
無端嫁得金亀婿
Cô phụ hương khâm sự tảo triều
辜負香衾事早朝.
Vị hữu vân bình vô hạn kiều,
爲有雲屏無限嬌,
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu.
鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc kim quy tế,
無端嫁得金亀婿
Cô phụ hương khâm sự tảo triều
辜負香衾事早朝.
Có nghĩa :
VỊ HỮU là VÌ CÓ...
Vì có bức bình phong vẽ mây ngũ sắc đẹp vô vàn, nên ở đất Kinh thành nầy lúc cuối đông hết lạnh, lại thấy lo sợ cho những đêm xuân, vì khi khổng khi không lại lấy phải ông chồng làm quan lớn thế nầy, nên chi sáng xuân ( là thời khắc mặn nồng nhất của đôi lứa ) ông ta lại phụ rãi bỏ mặc nệm ấm chăn êm thơm phức để đi chầu Vua buổi sáng sớm.!.
Diễn nôm :
Vì có bức bình phong vẽ mây ngũ sắc đẹp vô vàn, nên ở đất Kinh thành nầy lúc cuối đông hết lạnh, lại thấy lo sợ cho những đêm xuân, vì khi khổng khi không lại lấy phải ông chồng làm quan lớn thế nầy, nên chi sáng xuân ( là thời khắc mặn nồng nhất của đôi lứa ) ông ta lại phụ rãi bỏ mặc nệm ấm chăn êm thơm phức để đi chầu Vua buổi sáng sớm.!.
Diễn nôm :
Lục Bát :
Bình phong đẹp đẽ yêu kiều,
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài.
Vô duyên lấy phải quan ngài,
Gối chăn bỏ hết mặc ai,... đi chầu !
Rõ ràng là cái nũng nịu hết sức " dễ cưng " của những nàng mệnh phụ trẻ trung còn tràn trề nhựa sống !
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài.
Gối chăn bỏ hết mặc ai,... đi chầu !
Rõ ràng là cái nũng nịu hết sức " dễ cưng " của những nàng mệnh phụ trẻ trung còn tràn trề nhựa sống !
Ô
QUY 烏龜 : Rùa Đen, chỉ sự xui xẻo, hết thời, nhục nhã hèn hạ ... Ô QUY
còn dùng để chỉ những ông chồng bị vợ cấm sừng. Quy NÔ 龜奴 hoặc QUY TỬ 龜子
dùng để chỉ Chồng của các Tú Bà hay các Ma Cô bảo vệ kỹ nữ trong các kỹ
viện. Đọc truyện võ hiệp của Kim Dung hay nghe câu chưởi : " Lũ Rùa Đen
rút đầu hèn nhát trốn hết cả rồi !". Tuy nhiên, trong Tăng Quảng Hiền
Văn cũng có câu :
Cận lai học đắc Ô QUY pháp,
近來學得烏龜法,
近來學得烏龜法,
Đắc súc đầu thời thả súc đầu.
得縮頭時且縮頭.
得縮頭時且縮頭.
Có nghĩa :
Gần đây học được cách của con rùa đen là ...
Khi nào cần rút đầu thì hãy rút đầu lại !
Ý nói : Con người cần phải biết tùy thời mà xử sự !
金龜 Kim Quy và 烏龜 Ô Quy
Có tất cả 15 chữ được ghép bởi bộ QUY nầy, tiêu biểu có :
Có tất cả 15 chữ được ghép bởi bộ QUY nầy, tiêu biểu có :
MIẾT 龞 ( 鳖 ) : là Co Ba Ba.
THU 龝 ( 秋 ) : là Mùa Thu.
BỘ 17 nét :
1. BỘ DƯỢC 龠 :
DƯỢC 龠 : là Một loại nhạc khí xưa, có 3 lổ hoặc 6 lổ như Tiêu, Sáo. DƯỢC 龠 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
甲骨文 | 金文 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn Tiểu Triện đều là hình tượng của một hệ
thống ống tiêu, sáo được xếp song song nhau. Vì loại nhạc khí nầy thường
được làm bằng tre trúc, nên theo chữ viết Hội Ý chữ DƯỢC được chồng
thêm bộ TRÚC 竹 ở trên đầu thành chữ THƯỢC 籥 cũng có cùng một nghĩa như
trên.
Các loại tiêu sáo xưa nay
QUẢN DƯỢC CHI ÂM 管籥之音 : theo sách Mạnh Tử ( Chương Lương Huệ Vương hạ )
chỉ Tiếng nhạc hòa âm hòa tấu giữa Tiêu và Địch ( Địch 笛 là Sáo ).
Có 15 chữ được ghép bởi bộ DƯỢC nầy, tiêu biểu có :
HÒA 龢 ( 和 ) : là Hòa hơp, hòa tấu.
XUY 龡 ( 吹 ) : là Thổi. XUY TIÊU 吹簫 là thổi tiêu như trong bài Ỷ Hồ của Vương Duy đời Đường :
XUY TIÊU lăng cực phố, 吹簫凌極浦,
Nhựt mộ tống phu quân. 日暮送夫君。
Hồ thượng nhất hồi thủ, 湖上一回首,
Thanh sơn quyển bạch vân ! 青山卷白雲。
Có nghĩa :
Thổi tiêu ra tận bến bờ,
Trời chiều mình thiếp ngẩn ngơ tiễn chồng.
Quay đầu lòng những bâng khuâng,
Núi xanh quyện lấy bạch vân ngỡ ngàng !
Như thường lệ, trước khi kết thúc bài viết nầy, mời tất cả cùng đoán một chữ qua bốn câu sau đây :
天無他大, Thiên vô tha đại,
人有他大. Nhân hữu tha đại.
牛無它不生, Ngưu vô tha bất sanh,
人無它不大. Nhân vô tha bất đại.
Có nghĩa :
Trời không có nó thì lớn,
Người có nó mới lớn.
Trâu không có nó thì không sanh,
Người không có nó thì không lớn.
Các bộ từ 1 đến 17 nét đã chấm dứt, mời đọc bài kế tiếp : Sự Tương Quan Mật Thiết giữa các Thành Ngữ HOA- VIỆT.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét