Theo mẹ về Long Chữ từ ngày mới
lên mười hai với đứa em trai, thằng Chương lúc đó chưa tròn ba tuổi, Bưởi
đã biết chèo cái xuồng ba lá cũ kỹ, chỗ hở chỗ lành, phụ mẹ, vớt bông súng vào
mùa dọc theo con rạch Gò Suối, ra tới đầu vàm lớn nơi sông Vàm Cỏ Đông, chảy
vào địa phận Bến Cầu, bưng ra chợ xã bán. Mẹ là người Hớn Quản, làm phu cạo mủ
cao su, phải lòng người thanh niên cũng cùng một nghề, lấy nhau, sinh ra thằng
Chương, thì người đàn ông bỏ đi biệt tăm trong một đêm mưa dầm cuối mùa hạ, lúc
có tiếng súng du kích Việt cộng bắt đầu nổ lai rai, rãi rác đâu đó trên khắp
làng trên xã dưới của miền Nam.
Buồn tủi, nghèo nàn, mẹ ôm con lếch thếch, lưu lạc trôi giạt về Nam,
ngang Phước Long, Bình Long, qua Thủ Dầu Một rồi ở đây, tại ngã ba Củ Chi, mẹ gặp
Bưởi, đứa con gái gầy còm, da mặt mốc thích, mười tuổi đầu, không cha không mẹ,
chạy bán nước trà đá theo những chuyến xe đò, xe hàng lên xuống Tây Ninh, Hậu
Nghĩa, cho người đàn bà mập mạp, chủ một sạp thức ăn, tóc Bưởi rối bời, vàng úa
màu nắng khét, đang ngồi đếm lại tiền người mua trả dưới bóng mát giữa trưa,
bên gốc hàng cây bả đậu già nua, không thấy hoa thấy trái. Hỏi thăm tình cảnh,
mẹ đem Bưởi về nhà ở với bà, gọi là nhà nhưng chỉ là một cái chái nhỏ, dựng bằng
mấy tấm tôn cong queo, rĩ sét, đen đúa, chung quanh chất đầy bao ni-lông lớn cũ
mèm, cột túm cột hờ, sát nhờ hông tường của một căn nhà ngói, cuối chợ Củ Chi
mà người chủ thương tình cho phép ở tạm, ôm con nhỏ làm nghề lượm vỏ chai, rác
rưới quanh chợ, quanh bến xe, mang bán lại cho mấy chủ vựa phía bên kia đường,
gần căn cứ quân sự của VNCH, ngã về Bình Dương. Về ở với bà, Bưởi vui sướng hẳn
lên với hai tiếng “má ơi”, tiếng mà nó không biết là đã có lần nào gọi ai đó
chưa, Bưởi cũng chưa hề biết cha mẹ là ai và từ phương nào tới đây, và tới giờ
này, thật ra nó cũng không buồn nghĩ tới.
Mẹ Bưởi vất vả từ sáng tới chiều, áo quần nhăn nhúm, với việc tha lượm vỏ
chai, bao bị giấy rác, nhưng chưa bao giờ thấy bà than van, giận hờn hay to tiếng,
Bưởi ở nhà, tập nấu cơm, coi em, thằng Chương, may mà nó ít khóc, không hờn
không giận, Bưởi thương nó vô cùng, cơm ăn cũng nhín bớt đút cho em, thấy thằng
Chương cười là Bưởi vui hết sức nói, chờ bà về, ngày nào cũng như ngày nấy, cơm
nước xong hai mẹ con, tay lựa ra tay chất vào những thứ bà lượm được trong ngày
để kịp đem đi cân bán lại sáng mai, thả thằng Chương chạy lấp xấp chơi vòng
vòng bên cạnh. Giờ thì Bưởi sung sướng quá rồi, có chỗ nằm ngủ hẳn hoi, trên
cái giường đủ cho ba mẹ con làm bằng ván thông mà bà xin được từ trại lính,
không còn nằm co queo, lạnh lẽo bên góc hiên nhà người, Bưởi thương làm sao,
cái hơi ấm tỏa ra từ mẹ và tiếng ngái ngủ vô tư thơ dại của thằng em nhỏ, cười
nhiều hơn khóc, dù chưa biết gì về cuộc đời. Nhiều hôm, nắm tay em chờ mẹ về, đứng
nhìn ra đường, thấy học trò trai gái, cở tuổi mình, tan học đi ngang qua, Bưởi
chợt thấy tủi thân tủi phận và đã có lúc ước gì, nhưng rồi thôi. Mùa Tết năm
đó, hai chị em được mặc quần áo mới mà mẹ đã để dành tiền mua cho, từ những
ngày cuối đông lành lạnh, Bưởi khóc lên vì vui sướng, làm mẹ cũng chảy nước mắt
theo. Hơn hai năm sau, tình cờ, mẹ gặp lại một người chị bà con xa bên ngoại, từ
Bình Dương về, đứng chờ đón xe đi Tây Ninh ngoài đường lộ, lúc bà đi giao mớ
bao vỏ chai còn sót ở nhà chiều hôm qua, hai người hỏi thăm rối rít đủ chuyện rồi
chia tay. Không hơn tháng sau, ba mẹ con dọn dẹp cái chái nhà, thu xếp quần áo,
đồ dùng lặt vặt, quét miếng đất trống sạch sẽ, trả lại, cám ơn tấm lòng tử tế của
người chủ nhà, rồi tay xách nách mang, chào từ biệt nhưng không dám hẹn ngày gặp
lại, đón chuyến xe đò sớm nhất từ Sài Gòn-Tây Ninh về Bến Cầu trong ngày để kịp
xuống đò sang Long Chữ.
Về Long Chữ, mẹ được người chị bà con xa, hôm gặp ở Củ Chi, hai vợ chồng
có căn nhà mái tôn cũ, nằm giữa đám ruộng tốt tươi, cuối ấp chính, và một số
người quen chung quanh, giúp một tay, dựng giùm căn nhà lợp tranh, vách đất tạm
được, trên miếng đất gò nhỏ, nằm một bên này con đường đất mòn, chạy dọc theo rạch
Gò Suối, dẫn ra tới đầu vàm, có hàng cây trâm bầu cao lớn đầy bóng mát rượi, xa
xa phía sau là một cái nghĩa địa nhỏ, có chừng hai ba chục nấm mồ đất, khô cằn
và nứt nẻ. Ngược lên hướng trên, đường làng tới chợ xã cũng khá xa, nhà dân lưa
thưa, lác đác cái đầu cái cuối, xen kẻ với đất cày và ruộng nước, trâu bò đi
nhiều hơn là người. Mẹ làm đủ thứ việc, cấy lúa nhổ mạ, đập lúa mướn cho bà con
có ruộng, giống như người chị, trong ấp trong làng khi mùa ruộng tới một thời
gian, rồi xin ở đâu đó được cái xuồng ba lá cũ đem về, cột lủng la lủng lẳng ở
bên gốc cây trâm bầu lớn đầu con rạch, tập chèo ghe, theo người quen ra vàm vớt
bông súng về, gánh lên bán trên chợ xã, mẹ cũng biết tát đìa, cắm câu bắt cá,
việc nào dễ làm thì mẹ dẫn Bưởi đi theo chỉ này chỉ nọ. Thấy mẹ siêng năng, hiền
hậu, bà con chung quanh ai cũng thương cũng mến, có vài ba người đàn ông nào
đó, muốn gá nghĩa vợ tình chồng, mẹ dịu dàng nhỏ nhẹ từ chối, mẹ nói “bà không muốn khổ thêm lần nữa”, nhưng
Bưởi không biết “khổ lần nữa là như thế
nào”, mẹ không biết chữ nhiều, chỉ dọc được và viết được chút đỉnh thôi
nhưng bà cũng cố dạy cho Bưởi mỗi khi rảnh rổi, lúc đó, mẹ buồn buồn bảo nó “thôi con đừng buồn, chắc phần số mình như vậy
rồi, để mẹ ráng lo cho em con, tội nghiệp, thử xem cho nó khá hơn mẹ con mình”.
Mẹ bắt đầu già hơn và xem
ra không khỏe như những ngày trước, đầu
tắt mặt tối cũng chỉ đủ cơm ngày hai bữa, con gái lên mười lăm tuổi, Bưởi thay
mẹ, vừa lo cho em vừa phụ ra đồng, làm thuê làm mướn, quên cả nặng nhọc, giống
như mẹ, không một chút than phiền, nhưng là đã sinh ra là con gái, với tuổi
này, Bưởi đã biết buồn, biết thẹn thùng mắc cở, khi đi ngang đám trai bỏ mạ cấy
lúa, nhìn ngó xì xầm, khi đứng nhìn con nhà ai đâu đó, quần áo rực màu, khách
ra người vô, tươi cười bước lên xe hoa, dù là cái xe lam cũ với mấy nhánh dừa
cuốn cong, ghép vài chùm hoa dại theo chồng về phương nào đó. Cũng từ đó, mẹ
nghe được tiếng Bưởi thở dài ray rứt, lùa tiếng muỗi vo ve trong những đêm
khuya lặng vắng nhưng mẹ chỉ biết ngậm ngùi nín lặng dù hồn mình cũng đứt từng
khúc ruột, đau buồn không ít.
Qua tết, thằng Chương đi học lớp
năm ở trường tiểu học Long Chữ vừa được nửa năm, thì mẹ mất. Sau ngày đi cấy
cho đám ruộng của nhà ông bà tư Lành, đầu xóm trên, gần chợ xã, về nhà, trời tối
om và mưa dầm từ hồi còn sáng sớm, người ướt sũng từ đầu tới chân, dù có khoát
cái bao ni-lông lớn che, mẹ nói mệt và nhức đầu quá, không chịu ăn cơm, nằm vật
xuống giường im thinh thít, Bưởi chạy qua nhà bà chị của mẹ báo tin, vợ chồng
dì, bưng đèn sang, lấy dầu cù-là hiệu con Cọp thoa khắp người, Bưởi nhổ xả nấu
nướng sôi, để mẹ xông như người ta chỉ, vợ chồng người dì về rồi, Bưởi nấu nồi
cháo lỏng, vừa cho em ăn vừa ngồi bên giường chờ mẹ khỏe lại. Sáng hôm sau, Bưởi
gởi thằng Chương cho nhà bên cạnh, theo bà dì cùng với chị y tá của trạm y tế
xã, mượn chiếc xe lam chỡ bà ra bệnh viện dưới Gò Dầu nhưng xe vừa chưa quá nửa
đường thì mẹ Bưởi qua đời, Bưởi ngất lên khóc tức tưởi gọi “má hởi má ơi”, người dì cũng không cầm được nước mắt. Không có đám
tang, không có kèn trống, bà con hàng xóm, một người một tay, đưa mẹ ra chôn ở
cái nghĩa địa làng hoang vắng, ngó qua hàng cây trâm bầu, mùa này hoa vừa nở rộn.
Bưởi chết lặng, tan nát cả lòng, khi nghe thằng Chương hỏi “má đâu rồi chị hai” trên đường trở lại
nhà, đêm đó, ôm em vào lòng, hát ầu ơ ví dầu cho nó ngủ như hằng đêm, mà nước mắt
chảy dài ướt cả cái mền rách cũ của hai chị em đắp chung từ ngày chân ướt chân ráo
về Long Chữ. Sau ngày mẹ mất hai ba hôm, sáng nào cũng như sáng nấy, Bưởi dắt
em ra mộ bà thật sớm, hai chị em đốt nhang khấn lạy, rồi ôm em ngồi khóc ròng,
thằng Chương chắc cũng hiểu được mẹ nó không còn trên đời này nữa nên nức nở
khóc theo, đêm về, tiếng thằng Chương mớ gọi “má ơi” trong giấc ngủ, buồn hơn tiếng ễnh ương kéo dài ngoài mương
ruộng,
Từ đó, Bưởi cũng như mẹ, cũng chèo xuống ba lá vớt bông súng đầu mùa,
làm thuê gặt mướn cho người láng giềng, cũng cắm câu tát đìa, nuôi em, không
than không phiền một tiếng, nhất quyết lo cho em ăn học, trong cái hy vọng mỏng
manh như ngày mẹ còn sống, đời thằng Chương sẽ phải khá hơn họ. Thằng Chương
bây giờ đã lớn, tự một mình, ôm cái cặp đan bằng lát tre, theo mấy đứa bạn nhà
bên kia đường, đi bộ tới trường, tiếng mầy tiếng tao dưới trời sương sáng hay bụi
nắng chiều hôm, dọc theo hàng cây trâm bầu, hoa rụng ngập trên rạch trong những
ngày cuối mùa chờ trái chín tới. Bưởi không được đẹp nhưng thấy Bưởi nói năng
hiền lành, siêng năng chăm chỉ, đi dứng dịu dàng, nên ba bốn gia đình ấp trên ngỏ
lời nhờ người dì, muốn cưới Bưởi cho con trai họ, nhiều lần bà nhắc chuyện
nhưng Bưởi chỉ cười trừ, hẹn lần hẹn lựa “con
còn phải lo cho em, chờ nó lớn chút xíu, vài năm rồi con tính”. Riết rồi
quen, Chương cũng bắt chước chị mình, chiều đi học về nhà, bỏ cặp, kéo tấm liếp
tre che cửa lại, chạy một mạch ra gò mả, đấp bồi đất mộ mẹ, nhỗ cỏ dại chung
quanh, lầm thầm hai ba tiếng, trong khi chờ Bưởi đi vớt bông súng về, cột cái
xuồng vào gốc cây trâm bầu đầu rạch, gần con đường mòn băng qua ngang nhà, rồi
hai chị em người bưng người vác, khệ nệ nhỏ to “chị ơi chị hởi”.
Chương xuống Gò Dầu Hạ, vào trung học, may có được cô Nhuần, đang ở với
mẹ, bà Tâm, là người ăn chay trường, làm việc thiện, thường đi cúng ở chùa Thạnh
Lâm, dạy môn Sử Địa, có nhà là căn phố lầu ngay ngã ba, ngó qua bến xe, đầu đường
vô trường, thấy hoàn cảnh hai chị em tội nghiệp, nên sẳn lòng cho Chương ở trọ,
không tính tiền tính bạc gì hết, hai chị em mừng muốn khóc, thỉnh thoảng hai ba
lần xuống thăm em, Bưởi cũng ráng đem theo, xâu cá rô cá trê, trái bí trái bầu,
để gọi là chút quà nhà quê, cám ơn tấm lòng tử tế của bà và cô, năn nỉ lắm hai
người mới chịu nhận nhưng bảo Bưởi đừng làm vậy nữa. Chương dễ thương, học giỏi,
siêng năng, ăn nói nhu mì, phụ việc trong việc ngoài, tiếng dạ tiếng thưa, mỗi khi bà Tâm gọi giúp bà chuyện này chuyện nọ,
Chương cũng thường theo bà mang hoa quả qua chùa, chăm chú nghe hồi kinh tiếng
mõ cho nên hai mẹ con cô Nhuần thương nó không ít, càng ngày càng mến tay mến
chân, đôi khi, Chương về Long Chữ thăm chị, chiều chưa lên kịp, bà Tâm cứ đi tới
đi lui trước cửa nhà, ngó qua bến xe, nhìn lên hướng cây cầu, thở dài thở ngắn.
Cuối hè, chuẩn bị lên đệ tam, có người bên Long Giang qua hỏi cưới, hai
người gặp nhau, hôm đi theo người quen, mấy ngày qua làm công đập lúa cho gia
đình của anh Tín, anh phải lòng thương chị, gia đình anh qua Long Chữ nhờ người
dì nói vô giùm một tiếng, nghĩ tới nghĩ lui, thằng Chương giờ đã lớn khôn, có
nơi nương nhờ tá túc đi học đàng hoàng, nhà nghèo côi cút có người thương là
quá may mắn rồi, vã lại anh Tín cũng thấy thương, cuối cùng Bưởi bằng lòng,
Chương buồn lắm vì hai chị em sẽ xa nhau, nó sẽ nhớ chị vô vàn, trong đời nó,
ngoài mẹ ra, không ai có thể thay hình bóng chị Bưởi trong đầu nó được, nhưng
Chương cũng biết, “chị đã chịu gần một phần
ba đời bất hạnh, khốn khổ, không lẽ chị cứ khổ suốt đời, chị cần có một chút hạnh
phúc cho riêng mình sau những tháng ngày cứ mãi lo cho hạnh phúc người khác”,
Chương thấy vui cho chị và mừng muốn khóc. Trước ngày theo chồng về Long Giang,
Bưởi đưa cho Chương một số tiền mà Bưởi đã dành dụm được từ bao nhiêu năm qua,
cất dấu trong cái túi vải đen củ kỹ, dặn nó tiện tặn xài, nhớ thăm mộ mẹ thường
xuyên, có gì thì chạy qua nhà người dì nhờ giúp, hai chị em dẫn nhau ra mộ mẹ,
ôm nhau khóc sụt sùi, “dạ mẹ con đi, mẹ
có linh thiêng xin về phù hộ cho em con được mọi sự bình an may mắn, con sẽ về
thăm mẹ, khi mùa hoa trâm bầu nở năm sau”.
Ngày giỗ mẹ năm sau, cũng vào mùa hoa
trâm bầu nở rồi năm sau nữa, Bưởi không trở lại nhà như đã hứa, hỏi ra, người
dì cho biết, có tin từ mấy bác quen, nhà ở Long Giang là, Bưởi đã bỏ nhà chồng
đi, không ai biết đi đâu, cách nay chừng chưa đầy một năm, vì không thuận thảo
với chị em bên chồng, gian nan Bưởi không hề quản ngại nhưng luôn bị đối xử bất
công, tiếng bấc tiếng chì, mà anh Tín, chồng chị, không mạnh dạn đứng ra bênh vực
cho vợ, có người nói thấy Bưởi đón xe đi lên miệt biên giới Miên. Chiến tranh
giờ lan rộng khắp nơi, không còn là cuộc chiến của những tiếng súng lẻ loi, lác
đác mà của súng đại liên đại pháo, quân cộng sản miền Bắc đã có mặt nhiều nơi,
xem ra trận đánh ngày càng ác liệt hơn, đậu tú tài một, Chương tình nguyện vào
lính, từ trường Bộ Binh Thủ Đức ra, Chương theo binh chủng Biệt Động Quân, về với
tiểu đoàn 41, ở Kiến Phong Cao Lãnh. Trước ngày ra đơn vị, Chương về lại Long
Chữ, giao nhà cửa cho người dì và nhờ thỉnh thoảng trông coi giùm mộ mẹ, vì đời
lính rày đây mai đó, không biết có về kịp mùa hoa trâm bầu nở bên con rạch
nghèo Gò Suối hay không.
Giữa tháng 12 năm 1971, Tiểu
đoàn 41 BĐQ của Chương, mở cuộc hành quân trong vùng Phụng Hiệp Cần Thơ nhằm đẩy
quân cộng sản, đang tập trung quân, tìm cách tiến sâu vào thành phố ngược về
biên giới Miên. Hai bên đụng dộ dữ dội, cộng sản Bắc việt huy động toàn bộ lực
lượng trong vùng, chận cho được sự tiến công của Biệt Động Quân bằng mọi thứ vũ
khí họ có, cả đại bác qua nhiều đợt tấn công ác liệt suốt cả ngày nhưng bị bẻ
gãy và cuối cùng phải rút lui tháo chạy qua bên kia sông, dưới sự phản pháo của
pháo binh BĐQ từ Cao Lãnh bắn lên. Tiểu đoàn 41 BĐQ có vài người chết, quân cộng
sản bỏ lại mấy chục xác, không kéo theo kịp, nhưng trên đường tháo lui, họ cho
gài lại một nhóm quân cảm tử chừng mười mấy người, nằm phục kích tại mấy cánh
ruộng bát ngát, tìm cách bắn sẻ, làm chậm bước quân đuổi theo, chừng hai ba tiếng
đồng hồ, quân BĐQ vượt qua sông, càn quét ngang khắp cánh đồng, nhiều xác lính
cộng sản bỏ lại với súng AK47 bên mình, nằm dưới nước lấp xấp nửa người.
Chiều chầm xuống, tiếng súng sau đó tạm ngưng hẳn rồi im bặt, Chương bị
thương không nặng lắm ở cánh tay, được mấy người lính y tá, băng bó tạm tại một
khoảng đất gò cao, khô ráo, dưới tàn lá úa vàng của mấy cây dừa già nua gầy guộc
bên cạnh hai ba người sĩ quan trong toán chỉ huy và mấy anh lính mang máy truyền
tin, trên khúc bờ đê, từ đàng xa, ở ngoài phía ruộng, trong khi từng tốp lính
trải ra thu nhặt vũ khí, gom xác quân cộng sản, có bộ đội, có du kích, nằm chết
trong nhiều tư thế, tiểu đội đi với Chương, khệ nệ khiêng một người nữ du kích
Việt Cộng, mặc đồ bà ba đen, đội nón cối, mình mẩy ướt sủng, đầy máu, vì bị
thương khá nặng, có lẽ do trúng đạn của pháo binh, hậm hực lớn tiếng gì đó đi
lên, bỏ nằm trên tấm bông-sô trải dài dưới đất, Chương gở nón sắt xuống, cầm
trên tay, người lính y tá mang cái thùng cứu thương chạy tới xem qua xem lại, lắc
đầu, ngó về phía ngoài ruộng, lấy tay làm loa gọi lớn “bác sĩ, bác sĩ “. Chương tò mò, bước lại gần nhìn, rồi quỵ người
ngã xuống, cái nón sắt rớt khỏi tay, lăn vòng vòng trên đất, người y tá hớt hãi
la lớn hơn, “thiếu úy Chương, bác sĩ bác
sĩ, thiếu úy Chương”, mấy người sĩ quan, ngồi gần đó cũng vội chạy tới, thiếu
tá Hội, tiểu đoàn phó, xốc nách đở Chương dậy, người nữ du kích bị thương vẫn
không nhúc nhích, mắt nhắm nghiền, môi khô xạm, tóc rối bời, dính từng mảng máu
tím bầm đông cứng, dưới cái nắng chiều còn sót vài tia sáng muộn, Chương vịn
tay thiếu tá Hội, gượng ngồi lên, nhìn người du kích lần nữa, buột miệng “trời ơi chị Bưởi, chị Bưởi”.
Bưởi được phi cơ trực
thăng tản thương, đưa về quân y viện Cần Thơ, cùng với chục người lính BĐQ bị
thương khác, trong đó có Chương ngay buổi chiều hôm đó, người ta đem Bưởi vào khu
cấp cứu với hy vọng cứu sống được, bình nước biển, ống chích, dây chuyền máu
giăng chằng chịt không khác gì mạng nhện, từ đầu tới chân, ngang dọc trên giường,
mấy chị y tá chăm chú, nhiệt tình, người đứng người ngồi, cố làm hết sức, hết bổn
phận mình trong màn đêm lành lạnh. Chương mang băng vải cột kéo cánh tay, đứng ở
đầu giường nhìn, lặng thinh, cố nén lòng đau nhưng không ngăn được nước mắt ứa
ra từng giọt mặn. Chương bắt cái ghế ngồi trước cửa, thỉnh thoảng nhìn vào
trong phòng, miệng nghẹn ngào lầm thầm hai tiếng “chị ơi”, ngoài xa xa vẫn còn nghe tiếng đại bác gầm gừ từng chập một.
Quá nửa đêm, khi người y tá giữ ca trực cuối cùng ra về không lâu thì Bưởi tắt
thở, ra đi không nói được lời nào, Chương lặng câm vuốt mắt chị lần cuối, không
khóc được nữa, và đứng đó như trời trồng cho đến khi nhân viên bệnh viện tới
làm thủ tục, Chương giữ lại cái túi vải mà chị còn mang theo mình, dùng cánh
tay còn khỏe, ngậm ngùi lấy tấm giấy nhỏ, bèo nhèo, úa màu xếp làm bốn ra, để
lên cái bàn nhỏ kê sát đầu giường, dưới ánh đèn vừa đủ sáng, trong phòng, ai ai
cũng ngạc nhiên trố mắt nhìn, thì ra tờ giấy, “như là giấy thông hành, kêu gọi cán binh, bộ đội cộng sản chiêu hồi về
với quốc gia, có hình lá cờ VNCH”, không biết Bưởi đã giữ nó từ bao lâu rồi.
Chương mướn xe đưa xác Bưởi về
Long Chữ, khi được tiểu đoàn cho vài ngày phép, với sự giúp đở của bà con chung
quanh ấp cũ, đem Bưởi chôn cạnh mộ mẹ, hai nấm đất nằm bên nhau, cùng nhìn hướng
hàng cây trâm bầu bên bờ con rạch Gò Suối, nén nhang thơm chia đều, bên mẹ bên
chị, Chương bùi ngùi, nghèn nghẹn khóc. Cuối cùng, dù có trễ chị Bưởi cũng “về lại nhà xưa như đã hẹn hôm ra đi nhưng
không như mẹ, chị về khi mùa hoa trâm bầu chưa kịp nở”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét