Tạp Ghi và Phiếm Luận :
TUỔI THÌN RỒNG Ở THIÊN ĐÌNH
Tuổi Thìn Rồng ở thiên đình
Làm mưa làm gió ẩn mình trong mây.
TÝ, SỬU, DẦN, MÃO, THÌN... THÌN 辰 là ngôi thứ 5 trong Thập Nhị Địa Chi 十二地支, cầm tinh con RỒNG; Chữ Nho gọi Rồng là LONG 龍, là con thú đứng đầu trong Tứ Linh 四靈 : LONG LÂN QUY PHƯỢNG 龍麟龜鳳. Chữ LONG 龍 là tượng hình của một con vật thần thoại và cũng là một trong 214 bộ của "CHỮ NHO...DỄ HỌC" theo diễn tiến của chữ viết như sau :
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn và Kim Văn là hình tượng của một loài thú bò sát như
rắn ngẩn cao đầu, trên đầu có sừng, đang há miệng và trong miệng có
răng, trông rất hung ác. Đến Đại Triện thì phần đầu được viết to ra và
phần mình và đuôi được rút ngắn lên bên phải, kịp đến Tiểu Triện thì lại
thêm vài nét trên lưng tượng trưng cho kì vi, đến Lệ Thư thì các nét
được kéo thẳng như chữ viết hiện nay LONG 龍 là RỒNG.
RỒNG
là con vật thần thoại trong truyền thuyết Trung Hoa từ đời thượng cổ;
có sừng, có vảy, có móng vuốt, có râu ria, Có thể ngắn có thể dài, có
thể lớn có thể nhỏ, khi mờ khi tỏ, biết kéo mây làm mưa; mùa xuân thì
bay lên trời, mùa thu thì lặn xuống vực sâu, biến hóa vô cùng.
Năm 2024 là năm GIÁP THÌN 甲辰. GIÁP là ngôi đầu của Thập vị Thiên
Can là : GIÁP, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Qúy. THÌN là
ngôi thứ năm của Thập nhị Địa Chi là "Mười hai con giáp : Tý, Sửu, Dần,
Mão, THÌN, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dẫu, Tuất, Hợi". GIÁP theo Dịch lý ngũ
hành thì Đông phương Giáp Ất thuộc Mộc, là mùa Xuân, cây cỏ đâm chồi nẩy
lộc, chủ màu Xanh. THÌN là Rồng, nên GIÁP THÌN là con rồng mang màu sắc
của cây cỏ, là con Rồng Xanh, chữ Nho gọi là Thanh Long 靑龍 hay Thương
Long 蒼龍 gì cũng được. Lạm bàn về chữ THANH và THƯƠNG như sau :
* THANH 靑 : là chữ Hội Ý. Có phần trên là bộ SANH 生 chỉ thực vật cây
trái còn sống (chưa chín); Phần dưới là chữ ĐAN 丹 chỉ động vật còn đỏ
hỏn khi mới được sanh ra. Nên THANH là Màu xanh nói chung, chỉ còn tươi
còn trẻ còn non, như THANH SƠN 靑山 là Núi Xanh; THANH MAI 靑梅 là Mai còn
xanh non; THANH NIÊN 靑年 là Tuổi Xanh, tuổi còn trẻ...
*
THƯƠNG 蒼 : là chữ Hài Thanh. Có phần trên là bộ THẢO 艹 chỉ Hoa cỏ; Phần
dưới là chữ THƯƠNG 倉 (là Bồ lúa) chỉ Âm. Nên THƯƠNG là màu xanh lá cây,
là màu xanh tươi của hoa cỏ; như THƯƠNG THÚY 蒼翠 là Xanh biếc; THƯƠNG ĐÀI
蒼苔 là Rêu xanh; THƯƠNG THIÊN 蒼天 là Trời xanh...
Nên...
Năm GIÁP THÌN 2024 là năm của con Rồng Xanh, của Thương Long hay
Thanh Long; mà THANH LONG 靑龍 là một trong Tứ Linh 四靈 của Thiên Tượng 天象
trên trời, nên là một trong Tứ Tượng 四象. Căn cứ theo âm dương ngũ hành
THANH LONG là con linh thú ở phương đông, thuộc hành Mộc nên có màu
Xanh, đại biểu cho mùa Xuân và thuộc quẻ Chấn trong Bát quái.
THANH LONG hay THƯƠNG LONG còn là một nhóm Bảy vì sao ở hướng đông trong Nhị Thập Bát Tú. Bảy sao đó là :
1. Sao GIÁC là GIÁC MỘC GIAO 角木蛟 : là con Giao long.
2. Sao CANG là CANG KIM LONG 亢金龍 : là con Rồng vàng.
3. Sao ĐÊ là ĐÊ THỔ LẠC 氐土貉 : là con Cáo.
4. Sao PHÒNG là PHÒNG NHẬT THỐ 房日兔 : là con Thỏ.
5. Sao TÂM là TÂM NGUYỆT HỒ 心月狐 : là con Chồn.
6. Sao VĨ là VĨ HỎA HỔ 尾火虎 : là con Cọp.
7. Sao CƠ là CƠ THỦY BÁO 箕水豹 : là con Beo.
Bảy sao đó hình thành hình tượng của một con Rồng Xanh trên bầu
trời Đông : GIÁC là hai sừng của rồng, CANG là cổ của rồng, ĐÊ là móng
vuốt trước của rồng, PHÒNG là bụng của rồng, TÂM là tim của rồng, VĨ là
đuôi của rồng, CƠ là móng vuốt sau của rồng. Bảy chòm sao này xuất hiện
giữa trời tương ứng với mùa Xuân.
Hình tượng 7 nhóm sao THANH LONG trong Nhị Thập Bát Tú
Hai sao PHÒNG và TÂM gần nhau nhất trong nhóm Thanh Long, có nhiều
đặc điểm tương đồng về độ sáng, cấu tạo, chu kỳ,... nên thường được ví
như là hai chị em sinh đôi. Còn trong đời nhà Minh, Chỉ Huy Sứ Cẩm Y Vệ
được gọi là THANH LONG.
NĂM
THÌN là năm đứng sau năm Mão, là năm của con RỒNG, con vật thần thoại
không có thật. GIỜ THÌN là từ 7 - 9 giờ sáng, là giờ mặt trời bắt đầu
chiếu ánh sáng rưc rỡ lên vạn vật. THÁNG THÌN là Tháng Ba Âm lịch trong
năm với tiết Thanh Minh và Cốc Vũ, cây lúa đã bắt đầu xanh tốt để trổ
bông. Theo Tử Vi Đẩu Số thì người tuổi Thìn sẽ hợp với người tuổi Tý và
tuổi Thân, cách nhau 4 tuổi; Thân Tý Thìn TAM HẠP mà ! Còn TỨ HÀNH XUNG
là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, cách nhau 3 tuổi; trong đó THÌN-TUẤT là 2 tuổi
chánh xung với nhau, cách nhau 6 tuổi. Nên ngày xưa trai gái muốn kết
hôn thì các ông bà hay coi tuổi. Hễ cách nhau 2 tuổi, 4
tuổi hoặc 8 tuổi thì TỐT, còn cách nhau 3, 6 hoặc 9 tuổi thì rất XẤU, vì
sẽ lọt ngay vào Tứ Hành Xung của 3 nhóm : Tý Ngọ Mẹo Dậu hay Dần Thân
Tỵ Hợi hoặc Thìn Tuất Sửu Mùi. Chạy trời cũng không khỏi nắng !
THÌN là RỒNG, là con vật thần thoại sống ở trên trời như câu hát dân gian ở đầu bài viết :
Tuổi Thìn Rồng ở thiên đình,
Làm mưa làm gió ẩn mình trong mây.
Theo Hào Cửu Ngũ của quẻ Càn trong Kinh Dịch《易經.乾卦》中,解説「九五爻」có câu
:... Vân tòng long, phong tòng hổ 雲從龍,風從虎... Có nghĩa : Mây theo rồng,
gió theo cọp, và chính xác hơn là "Long ngâm vân xuất, Hổ khiếu phong
sanh 龍吟雲出, 虎嘯風生" Có nghĩa : Rồng rống thì mây sanh, Cọp
gầm thì gió nổi. Nên Rồng và Mây thường hòa quyện vào nhau tạo nên một
bức tranh thật đẹp thật hùng vĩ trên bầu trời, nên cổ nhân mới ví những
người quan trường đắc chí hay thi đậu ngày xưa như là "Rồng Mây gặp
hội". Trong bài hát nói Kẻ Sĩ của cụ Nguyễn Công Trứ có câu :
RỒNG MÂY khi gặp hội ưa duyên,
Mang quách cả sở tồn làm sở dụng.
RỒNG MÂY hay MÂY RỒNG còn dùng để chỉ các bậc vua chúa ngày xưa, như khi gặp gỡ Thúy Kiều, Từ Hải đã bảo nàng :"Lại đây xem lại cho gần, Phỏng tin được một vài phần hay chăng ?" Thúy Kiều "ngắm" Từ Hải xong bèn đáp :
Thưa rằng : Lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy MÂY RỒNG có phen!
Rộng thương cỏ nội hoa hèn.
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau...
Ý của Thúy Kiều là : Tôi biết là ông có chí lớn rồi, có ngày ông sẽ
khởi binh như Đường Cao Tổ đã khởi binh ở Tấn Dương để gầy dựng nên nhà
Đường vậy! Có ngày ông sẽ thấy Mây Rồng, tức là có ngày ông sẽ xưng
hùng xưng bá hay làm vua gì đó. Chừng đó ông đừng có quên thân "cỏ nội hoa hèn" là tôi đây nghen, thân bèo bọt của tôi còn chờ để trông cậy vào ông đó ! Thấy Thúy Kiều nói trúng tim đen của mình, làm cho Từ Hải cũng cảm thấy sướng rơn và cũng rất tự hào mà hứa hẹn :
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
Từ Hải gặp Thúy Kiều như Rồng Mây gặp hội
RỒNG vừa bay trên trời lại vừa lội dưới nước; Bay trên trời là
THIÊN LONG 天龍, còn lội dưới nước là THỦY LONG 水龍. Theo truyền thuyết dân
gian cổ xưa ảnh hưởng bởi Đạo Giáo, RỒNG còn là vua ở dưới nước, được
xưng tụng là LONG VƯƠNG 龍王, quản về thời tiết mưa gió của dân gian, nên
những năm thiên tai hạn hán là phải cúng bái cầu đảo xin Long Vương ban
cho mưa xuống. Vì khoa Địa Lý Học ngày xưa chưa phát triển, nên dân
chúng cứ lầm tưởng là chung quanh đất liền mà ta ở gồm có bốn biển lớn,
nên mới có câu "Tứ hải giai huynh đệ 四海皆兄弟", có nghĩa : Bốn biển đều là
anh em với nhau cả; và cũng vì thế mà ta cũng có TỨ HẢI LONG VƯƠNG 四海龍王,
là Bốn ông vua Rồng của Bốn biển.
Năm Thiên Bảo thứ 10 đời Đường Huyền Tông (751), nhà vua đã ban chỉ sắc phong xưng hiệu của Tứ Hải Long Vương như sau :
1. Đông Hải Long Vương phong hiệu là : Quảng Đức Vương 廣德王.
2. Nam Hải Long Vương phong hiệu là : Quảng Lợi Vương 廣利王.
3. Tây Hải Long Vương phong hiệu là : Quảng Nhuận Vương 廣潤王.
4. Bắc Hải Long Vương phong hiệu là : Quảng Trạch Vương 廣澤王.
Theo truyện "Phong Thần Diễn Nghĩa" và "Tây Du Ký" thì Tứ Hải Long Vương có tên gọi như sau :
1. Đông Hải Long Vương tên là : Ngao Quảng 東海龍王:敖廣。
2. Nam Hải Long Vương tên là : Ngao Khâm 南海龍王:敖欽。
3. Tây Hải Long Vương tên là : Ngao Nhuận 西海龍王:敖潤。
4. Bắc Hải Long Vương tên là : Ngao Thuận 北海龍王:敖順。
Tứ Hải Long Vương
Đó là theo Đạo Giáo, còn trong Phật Giáo thì có đến Bát Bộ Thiên
Long, thường được gọi là THIÊN LONG BÁT BỘ 天龍八部, bao gồm 8 loại thiên
thần, chúng sinh, qủy quái, nhưng vì lấy "Thiên Chúng 天眾" và "Long Chúng
龍眾" làm đầu nên mới gọi là "Thiên Long Bát Bộ". Gồm có 8 bộ sau đây :
1. THIÊN CHÚNG 天眾 : là thiên thần (Deva), đứng đầu bởi Đế Thích
帝釋. Thiên chúng trong Phật giáo là con người vẫn còn trong Tam giới 三界
(Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới 欲界、色界、無色界)và Lục Đạo 六道(Thiên, Nhân, A
Tu La, Súc sinh, Ngạ qủy, Địa ngục 天、人、阿修羅、畜生、餓鬼、地獄).
2. LONG CHÚNG 龍眾 : là rồng (Naga) nhưng không có chân, trông
giống như một con mãng xà lớn, là chúa tể các loài trong nước. Kinh Phật
kể rằng một con rắn tên là Mucilinda đã cuộn thành một cái tàn che cho đức Phật nhập định trong một cơn giông bão.
3. DẠ XOA 夜叉 : (Yaksha) là Qủy thần (là thần ăn được quỷ) có
thể tốt có thể xấu. Rất nhiều Dạ Xoa đã được Phật chuyển hóa thành Thần
Hộ Pháp. Đứng đầu có "Dạ Xoa Bát Đại Tướng" có nhiệm vụ bảo hộ chúng sinh.
4.CÀN THÁT BÀ 乾達婆 : (Gandharva) Còn gọi là "Thần Thơm", không
ăn thịt, không uống rượu, chỉ ngửi mùi thơm, nên thân thể tỏa mùi thơm
nồng nặc, là nhạc thần phục thị cho Đế Thích.
5.
A-TU-LA 阿修羅 : (Asura) Nam rất xấu còn nữ thì thật đẹp. Thường hay ganh
tị và đánh nhau với Đế Thích và thường bị thua, rất đau khổ không được
vui sướng mặc dù có thể giàu có nhưng bị tâm ganh ghét đố kị làm cho đau
khổ.
6. CA LÂU LA 迦樓羅 : (Garuda) là Chim đại bàng
cánh vàng đầu có một cái bướu to gọi là Như Ý Châu, tiếng kêu bi thảm,
được người Trung Hoa bản địa hóa thành Đại Bàng Kim Xí Điểu. Ca Lâu La
thích ăn rồng, khi chết chất độc xông lên cháy tiêu thành tro, chỉ còn
một trái tim xanh biếc
7. KHẨN NA LA 緊那羅 : (Kinnara)
là Thần Âm nhạc của Đế Thích, giống người nhưng không phải người, vì
trên đầu có một cái sừng, giỏi múa hát.
8. MA HẦU LA GIA 摩睺羅伽 : (Mahoràga) là Đại Mảng Xà Thần, là thần rắn, mình người đầu rắn. Còn có tên là Địa long (Rồng trên mặt đất).
Nhà văn Kim Dung đã mượn tên tám loại qủy thần phi nhân sức mạnh
hơn người, mang hình dáng giống người nhưng không phải là người nầy để
ám chỉ từng nhân vật trong bộ truyện võ hiệp THIÊN LONG BÁT BỘ của mình
như : Kiều Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự, Du Thản Chi, Mộ Dung Phục, A Tử,
Vương Ngữ Yên, Tần Hồng Miên...
Ngoài ra, trong Phật giáo còn có một LONG NỮ 龍女 tiếng Phạn là
Nāga-kanya, nên còn đưọc dịch là Na Gia Long Nữ 那伽龍女, là con gái thứ ba
của Sa-Kiệt-La Long Vương 娑竭羅龍王, chính là cô bé cầm tịnh bình với nhành
dương liễu đứng bên cạnh Quan Thế Âm Bồ Tát đó. LONG NỮ còn có tên là
THIỆN NỮ LONG VƯƠNG 善女龍王. Còn phía bên kia của Quan Âm Bồ Tát là Thiện
Tài Đồng Tử, là Hồng Hài Nhi con của Ngưu Ma Vương và Thiết Phiến Công
Chúa đó.
Còn theo《Liễu Nghị Truyện 柳毅傳》của Lý Triều Uy 李朝威 đời Đường thì...
Vào những năm Nghi Phụng đời Đường, có thư sinh là Liễu Nghị đi thi
lạc đệ nên trở về phương nam. Khi đi ngang qua Kinh Dương của đất Thiểm
Tây, gặp một cô gái chăn dê bên bờ sông; mặt mày buồn bã cứ trông về
phía Nam mà rơi lệ. Liễu Nghị bèn hỏi rõ ngọn ngành, thì ra cô ta là
Long nữ, con gái thứ ba của Động Đình Long Quân, gả cho con thứ của Kinh
Hà Long Vương, bị ức hiếp đủ điều, lại bị đày lên chăn dê ở bờ sông
vắng vẻ lạnh lẽo nầy. Liễu Nghị mới ngạc nhiên hỏi rằng : Thần tiên cũng
chăn nuôi và ăn thịt dê sao ? Long Nữ đáp : Đây kông phải là dê thật mà
chỉ là hóa thân của những công cụ để làm mây làm mưa mà thôi! Cảm thông
với nỗi bất hạnh của Long Nữ, Liễu Nghị quyết định chuyển hướng đi về
Nhạc Dương của Động Đình Hồ để đưa tin dùm cô gái. Khi đến nơi, theo lời
chỉ dẫn dùng cây kim thoa của cô gái đưa cho gỏ ba cái vào một thành
giếng cạn ở Nhạc Dương làm kinh động thuỷ Dạ Xoa đi tuần theo ven hồ đến
đưa Liễu Nghị đi gặp Động Đình Long Quân. Sau khi biết con gái bị bạc
đãi, Long Quân rất đau lòng, còn chưa biết tính sao thì người em trai là
Tiền Đường Long Quân đã nổi giận hiện thân thành một con xích long bay
thẳng đến Kinh Hà giết hết toàn gia của Kinh Dương Quân, đón Long Nữ trở
về sum họp với gia đình. Cảm ơn cứu giúp của Liễu Nghị, Long Nữ muốn
lấy thân mình báo đáp, nhưng với lòng chính trực và thiện lương của kẻ
sĩ "Người quân tử vì nghĩa chớ không vì lợi" Liễu Nghị đã từ chối, rồi
từ biệt Long nữ để về nhà. Long Nữ càng tỏ ra kính trọng nhân cách của Liễu Nghị hơn,
nên mới âm thầm theo Liễu Nghị về tận nhà. Nào ngờ mấy mươi ngày ở long
cung thì trên đời đã qua mấy chục năm rồi. Không còn ai nhận biết Liễu
Nghị là ai nữa, may mà có Long nữ theo sau lại rước chàng về lại long
cung để cùng chung sống những ngày hạnh phúc bên nhau.
Còn trong truyện Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung thì Tiểu Long Nữ là
đồ tôn của Lâm Triều Anh nữ sĩ và là sư phụ của Thần Điêu Đại Hiệp Dương
Quá. Hai thầy trò nầy đã bức phá khỏi vòng lễ giáo lúc bấy giờ mà yêu
nhau và kết hợp làm chồng vợ với nhau.
Trong đời sống dân gian ngày xưa thì RỒNG là đấng chí tôn, là thiên
tử, là con của trời, là ông vua cao cao tại thượng, như trong Cung Oán
Ngâm khúc Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã cho nàng cung phi nói về Vua
như sau :
Mày ngài lẫn MẶT RỒNG lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
Mặt Rồng là mặt của nhà vua, nói theo chữ Nho là LONG NHAN 龍顏. Tất
cả những thứ gì của vua, chung quanh vua đều phải gán thêm chữ LONG vào.
Như Thân thể của vua là LONG THỂ 龍體. Áo của vua mặc là LONG BÀO 龍袍. Giường của vua ngủ là LONG SÀNG 龍床. Xe của vua đi là LONG XA 龍車... Nhớ hồi nhỏ hay nghe bà con lối xóm nói chơi khi ai đó ban đêm cứ nằm trăn trở hoài không ngủ được là "Long Thể bất an, vì Long Sàng có rệp !" Rệp cắn quá nên không thể ngủ được ! Lại nhớ...
Có một bận trong một "tua" du lịch đi thăm cố đô Huế, có anh hướng
dẫn viên du lịch trẻ tuổi có tính hài hước. Khi nhắc đến chữ LONG dùng
cho nhà vua anh ta đã thao thao bất tuyệt kể tiếp : Nào là ngựa của vua
cởi là LONG CÂU 龍駒, nhãn của vua ăn là LONG NHÃN 龍眼,
đồng hồ của vua đeo là "LONG-GHIN" (Longines)... làm cho mọi người trên
xe đều cười ồ. Rồi anh ta ra câu đố cho mọi người đoán xem là : Khi nhà
vua cưới vợ ngoại quốc sanh ra đứa con... thì đứa con đó gọi là LONG gì
? Mọi người trên xe đều ngưng cười, trầm ngâm suy nghĩ. Bỗng có tiếng
của một cô gái trẻ cất lên : LONG gì thì tui hổng biết, nhưng rõ ràng đó
là đồ "LAI GIỐNG" mà ! Sau phút ngẩn ngơ, mọi người chợt hiểu ra vì cái
giọng Nam kỳ Lục Tỉnh "LAI GIỐNG" hay "LAI DÓNG" gì cũng thế !
Trở lại với con Rồng ở dưới nước là Long Vương, là vua của sông dài
biển rộng, mặc sức vẫy vùng, những loài thủy tộc khác trông thấy đều
phải sợ oai mà tránh xa ra cả. Nhưng khi lội vào vùng nước cạn, xoay sở
khó khăn thì lũ tôm xú tép riu cũng lờn mặt mà dễ ngươi, như ông bà ta thường nói :
龍游淺水遭蝦戲; Long du thiển thủy tao hà hí,
虎落平原被犬欺。 Hổ lạc bình nguyên bị khuyển khi.
Có nghĩa :
- Rồng bơi nơi nước cạn thì tôm tép cũng giởn mặt. Còn...
- Cọp mà xuống đồng bằng thì lũ chó cũng dễ ngươi.
Cũng như cụ Nguyễn Du đã viết về Từ Hải trong Truyện Kiều khi sa cơ thất thế là :
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn !
RỒNG là con linh vật cao qúy mà các con vật khác đều muốn hóa thân
thành Rồng. Như cá chép hóa rồng trong thành ngữ "Lý Diệu Long Môn
鯉躍龍門". Cá Chép chữ Nho là Lý Ngư 鯉魚. Diệu 躍 là Nhảy; nên Lý Diệu Long
Môn là "Cá chép nhảy qua Long Môn" thì sẽ hóa thành rồng. Theo sách《Thái
Bình Quảng Ký 太平廣記》Quyển 466 Long Môn 卷四六六“龍門” có ghi :
Khi vua Vũ trị thủy, mở đường dẫn nước sông Hoàng Hà ra biển, thế
nước rất lớn, nhưng đến Mạnh Tân của Lạc Dương thì chậm lại. Cá chép nơi
đây lội ngược dòng nước lên đến Y Khuyết Long Môn của Lạc Dương; Nơi
đây ba đào chuyển động sóng dậy ngất trời. Đàn cá chép đều hăng hái cố
gắng nhảy lên để vượt qua. Con nào vượt qua được thì hóa thành rồng, con
nào không vượt qua được té trở lại đầu đập vào đá nên còn để lại một
vệt đen trên trán (chi tiết nầy giải thích cho vệt đen trên đầu các con
cá chép mà ta thường thấy).
Thi Tiên Lý Bạch đời Đường trong ba bài thơ ngũ ngôn cổ phong《Tặng Thôi Thị Ngự 贈崔侍御》có các câu như sau :
黃河三尺鯉, Hoàng Hà tam xích lý,
本在孟津居, Bổn tại Mạnh Tân cư.
點額不成龍, Điểm ngạch bất thành long,
歸來伴凡魚。 Quy lai bạn phàm ngư.
Có nghĩa :
Con cá chép mình dài ba thước (khoảng 9 tấc Tây) của sông Hoàng
Hà, vốn là ở nơi bến Mạnh Tân. Vì muốn thành rồng mà không được nên để
lại một vết trên trán. trở về làm bạn với các bạn cá phàm tục khác.
Hoàng Hà ba thước lý ngư,
Mạnh Tân là chốn cựu cư bao ngày.
Hóa rồng vỡ mộng về đây,
Như bao cá khác bạn bầy cùng nhau.
"Cá Chép Hóa Rồng" còn dùng để chỉ những người quan trường đắc ý,
tuổi trẻ tài cao, một bước lên mây như các thư sinh ngày xưa thi đậu
Trạng Nguyên, Tiến Sĩ vậy... Đó là các sĩ tử ngày xưa, ai cũng muốm hóa Rồng, không đa tình đáng yêu như cô gái Nam bộ hát trên sông nước...
Khá khen con cá hóa long,
Hóa Long không hóa, hóa lòng thương anh !
...qủa là tình nghĩa thắm thiết biết bao nhiêu !
Không phải chỉ riêng cá chép muốn hóa rồng, mà các bậc cha mẹ ngày
xưa lẫn ngày nay đều cũng muốn cho con mình lột xác để hóa rồng, nên ta
lại có thành ngữ "VỌNG TỬ THÀNH LONG 望子成龍". Có nghĩa : Mong mõi cho con
được thành rồng. Không phải thành con rồng thật, mà là muốn cho con cái
của mình có được những thành công vượt bực hơn người thường như : Thi
đậu làm quan lớn hay phát tích làm giàu to như Vương Khải Thạch Sùng
ngày xưa, như Bill Gates, Elon Musk... cuả ngày nay. Song song với thành
ngữ "VỌNG TỬ THÀNH LONG 望子成龍"là "VỌNG NỮ THÀNH PHỤNG 望女成鳳". Con trai
thì thành Rồng, còn con gái thì thành Phượng. Phượng của ngày xưa là có
chồng làm quan lớn hay được tuyển làm phi tần của nhà vua; còn Phượng
của ngày nay là các bà các cô có thành tích trên chính trường không thua
nam giới như : Bà cựu Thủ Tướng của nước Đức Angela Merkel, cựu ngoại
trưởng của Hoa Kỳ bà Hillary Rodham Clinton... hay có được một tấm chồng
giàu sang phú quý...
Vọng tử thành long Vọng nữ thành phụng
LONG là RỒNG tượng trưng cho Vua, PHỤNG là PHƯỢNG tượng trưng cho
Hoàng hậu; nên LONG PHỤNG dùng rộng ra thường để chỉ giới qúy tộc cao
sang quyền qúy và phổ cập hơn nữa là dùng để chỉ những người có tướng
mạo đoan trang uy nghi qúy phái hay những người có tài năng xuất chúng
vượt trội hơn những người khác... đều được gọi là "NHÂN
TRUNG LONG PHỤNG 人中龍鳳" có nghĩa là "Rồng Phượng trong đám người tầm
thường". Tương tự như con người, chữ viết đẹp, những nét thư pháp bay
bướm còn được ví như là LONG PHI PHỤNG VŨ 龍飛鳳舞, tức như là RỒNG BAY
PHƯỢNG MÚA vậy ! Trong dân gian để tôn vinh cái thời gian đẹp nhất của
con người khi kết hôn, cô dâu chú rể được ví như là Long là Phượng với
hình ảnh của Rồng và Phượng xoay tròn quấn quít lấy nhau trong 4 chữ
LONG PHỤNG TRÌNH TƯỜNG 龍鳳呈祥, có nghĩa Hình ảnh rồng phượng mang đến điềm
lành cho cô dâu chú rể. Bánh cưới có hình rồng phượng gọi là LONG PHỤNG
BỈNH 龍鳳餅. Sẵn lạm bàn thêm về 4 chữ LOAN PHỤNG HÒA MINH 鸞鳳和鳴, có nghĩa :
Chim LOAN và chim PHƯỢNG cùng hòa chung tiếng hót với nhau.
LOAN PHỤNG 鸞鳳 : là chim Loan và chim Phượng Hoàng. LOAN 鸞 cũng là
một loại chim thuộc hàng qúy tộc, tuy không bằng được PHỤNG HOÀNG 鳳凰 là
chúa tể của các loài chim mà trăm loại chim khác phải bay đến để chầu
chim Phụng Hoàng với thành ngữ BÁCH ĐIỂU TRIỀU PHỤNG 百鳥朝鳳. Còn thành ngữ
LOAN PHỤNG HÒA MINH 鸞鳳和鳴 là chỉ hai loài chim qúy tộc cùng kết thân với
nhau và cùng nhau cất tiếng hót như sự hòa hợp vui vẻ giữa vợ chồng với
nhau. Nên thành ngữ Loan Phụng Hòa Minh thường dùng để chúc cho đôi tân
hôn trong đám cưới là như thế đó.
Riêng loài Phụng Hoàng
鳳凰 thì Phụng là con trống và Hoàng là con mái. Như thành ngữ PHỤNG CẦU
KỲ HOÀNG 鳳求其凰 là : Con chim trống PHỤNG cầu thân với con chim mái HOÀNG
của nó. Đây cũng là tên của bản đàn nổi tiếng mà Tư Mã Tương Như đã đàn
để quyến rủ người đẹp Trác Văn Quân. Như trong "Bích Câu kỳ ngộ" có câu:
Cầu Hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.
Nhưng khi đi với LONG là RỒNG thì PHỤNG là PHƯỢNG lại trở thành con
chim mái, như PHỤNG QUAN 鳳冠 là cái Vương Miện có hình chim Phượng hoàng
của Hoàng Hậu đội trên đầu. PHỤNG LIỄN LOAN NGHI 鳳輦鸞儀 : là nghi thức
đón vương phi hay hoàng hậu, là hai cái càng kiệu (đòn kiệu) chạm hình
chim Phượng, xung quanh vây màn thêu chim Loan ; hoặc trên kiệu có tạc
hình của con chim Loan ngậm màn trướng. Như khi Từ Hải đã xưng vương rồi
cho 10 vị tướng quân đi đón Thúy Kiều với đầy đủ :
Sẵn sàng PHƯỢNG LIỄN LOAN NGHI,
Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng.
Vì RỒNG là biểu tượng của vua chúa, là tượng trưng cho giới qúy
tộc, là hiện thân của những người tài giỏi... Nên ai cũng thích rồng,
hoặc tỏ ra ta đây rất thích rồng, như câu truyện ngụ ngôn DIỆP CÔNG HIẾU
LONG 葉公好龍, có nghĩa : "Ông họ Diệp thích Rồng" sau đây :
Theo sách "Thái Bình Ngự Lãm quyển 389 太平御覽.卷三八九", phần《Trang Tử 莊子》Dật Văn 逸文 kể : Học
trò của Khổng Tử là Tử Trương, tư chất thông minh, siêng năng cần học,
biết phép đối xử với người chung quanh nên kết giao rộng rãi. Ông ta
muốn tiến thân trên đường hoạn lộ, nghe tiếng Lỗ Ai Công chiêu hiền đãi
sĩ, bèn tìm đến mong được trọng dụng. Nhưng ngày tháng cứ dần dà mãi mà
chẳng thấy Lỗ Ai Công hỏi han gì đến cả. Ông ta bỏ đi và nhờ người kể
lại câu chuyện sau đây với Lỗ Ai Công :"Thẩm Chư Lương 沈諸梁 người nước
Sở, là Huyện doãn của Diệp huyện, nên mọi người đều gọi ông ta là Diệp
Công 葉公. Diệp Công rất thích rồng, nên trong nhà ngoài ngõ đâu đâu cũng
có hình dáng của con rồng, không phải khắc nên thì là vẽ nên. Ngay cả
màn trướng gối nằm đều có thêu hình rồng. Một con rồng ở trên trời biết
được nên rất cảm động, muốn cho ông ta biết được rồng thật là như thế
nào, nên mới thừa dịp một đêm mưa gió hiện xuống nhà của Diệp Công. Thấy
trời đổ mưa Diệp Công ra đóng cửa trước, bất ngờ thấy một cái đầu rồng
to tướng hiện ra trước mắt, nhe nanh múa vuốt, ông ta hoảng hốt bỏ chạy
vào nhà thì thấy nguyên một cái đuôi rồng to lớn từ phía sau nhà vươn
tới, sợ qúa ông ta bèn ngất ngay tại chỗ. Con rồng rất ngạc nhiên, cứ
ngỡ ông ta sẽ rất vui mừng khi thấy được rồng thật. Nào ngờ ông ta lại
chết điếng như thế nầy. Thì ra Diệp Công chỉ thích những cái biểu tượng
như rồng chứ không phải thật sự thích con rồng thật". Tử Trương kể câu
chuyện nầy để châm biếm Lỗ Ai Công chỉ thích hư danh, muốn được tiếng là
chiêu hiền đãi sĩ, chứ thật ra chẳng biết xem trọng kẻ sĩ gì cả. Gặp
người hiền tài tìm đến mà cứ dửng dưng như không. Sau...
Thành ngữ DIỆP CÔNG HIẾU LONG 葉公好龍 được dùng rộng ra để chỉ những
người chỉ biết chạy theo xu hướng của thời đại. Người ta thích thì mình
thích, người ta có thì mình cũng phải có theo, mà không biết có để làm
gì. Làm ra bộ như ưa thích đến chừng gặp phải thực tế thì chẳng những
không thích mà còn sợ hãi nữa là đằng khác. Âu cũng là chuyện thường
tình của thói đời mà thôi !
Diệp Công hiếu Long
Rồng hiện xuống thì gọi là GIÁNG LONG 降龍 hay LONG GIÁNG 龍降 như
"chú tiểu Lan chỉ tay nói với anh chàng Ngọc" trong quyển tiểu thuyết
Hồn Bướm Mơ Tiên, tác phẩm đầu tay của nhà văn Khái Hưng, mà cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn
là : "Thưa ông, chùa Long Giáng kia rồi !". Lưng chừng một trái đồi
cao, mái ngói mốc rêu chen lẫn trong đám cây rậm rịt, bốn góc gác chuông
vượt lên trên từng lá xanh um... Sự tích Chùa LONG GIÁNG ở Bắc Ninh
theo lời kể của chú tiểu Lan như sau :
Thái Tổ nhà Lý, khi còn hàn vi, nhờ đạo Phật rất nhiều nên lúc
Ngài lên ngôi rồi, Ngài dốc lòng chăm chỉ sửa sang các chùa chiền. Đến
đức Nhân Tôn vì bận việc chinh phục Chiêm Thành và chống chọi với nước
Tàu nên trễ nãi đạo Phật.
Ngọc Hoàng
Thượng đế muốn giúp nhà vua tỉnh ngộ, liền cho một nàng tiên nga giáng
thế đầu thai, tức là Văn Khôi công chúa. Công chúa nhan sắc diễm lệ một
thời, nhưng khi lớn lên, chỉ ngày đêm học đạo tu hành. Sau vì nhà vua cố
ý kén phò mã, công chúa liền đương đêm lẻn bước trốn đi, nhờ có các
thần tiên đưa đường tới nơi này xin thụ pháp với đức Cao Huyền hòa thượng.
Về sau có thám tử báo tin, đức vua mấy phen cho quan quân đến chùa
đón công chúa về triều. Công chúa nhất định không nghe. Nhà vua nổi
giận, truyền quan quân phóng hỏa đốt chùa. Ngọn lửa vừa nhóm, bổng một
con rồng vàng hiện lên phun nước tắt ngay. Vì thế chùa này mới lấy tên là chùa Long Giáng từ thuở ấy...
"Hồn Bướm Mơ Tiên" với mái chùa Long Giáng dưới ngòi bút của nhà
văn Khái Hưng đã để lại một câu chuyện tình vừa đẹp vừa nên thơ vừa lãng
mạn của bối cảnh lịch sử và phong trào văn học mới lúc bấy giờ.
Chữ 降 nếu đọc là GIÁNG thì có nghĩa là Sa xuống, Hiện xuống. Như
Tiên GIÁNG trần, như chùa Long GIÁNG đã nói ở trên. Còn nếu đọc là 降
HÀNG thì có nghĩa là Đầu HÀNG, là HÀNG phục. Như "HÀNG LONG THẬP BÁT
CHƯỞNG 降龍十八掌" trong các truyện võ hiệp của Kim Dung vậy. Đây là bộ
chưởng pháp mạnh mẽ thuộc loại dương cương "MƯỜI TÁM CHƯỞNG CÓ THỂ HÀNG
PHỤC RỒNG"; Uy lực của loại chưởng pháp nầy ta có thể thấy qua trong
điện ảnh hay đọc qua các truyện với Kiều Phong trong Thiên Long Bát Bộ,
Hồng Thất Công và Quách Tĩnh trong Anh Hùng Xa Điêu và trong Thần Điêu
Hiệp Lữ. Đây là pho chưởng pháp trấn bang của Cái Bang.
Có rất nhiều người thắc mắc là không biết hết được tên của 18 chưởng
pháp nầy. Xin được trình bày rất vắn tắt theo tài liệu tìm thấy trên
mạng như sau :
1. Kháng Long Hữu Hối 亢龍有悔 :
Thuộc quẻ Càn trong kinh Dịch; Tượng Thượng Cửu. Tư thế của Quách
Tĩnh khi học chiêu thức nầy là chân trái hơi chùn xuống, cánh tay phải
cong vào, cổ tay xoay một vòng tròn đánh ra một chưởng,"vù" một tiếng,
nhánh cây tùng phía trước mặt kêu răng rắc rồi gãy rơi xuống đất.
Nhờ có chiêu này, Quách Tĩnh đã khiến cho Sâm Tiên Lão Quái Lương Tử
Ông, một cao thủ hắc đạo đã phải sất bất sang bang mấy bận, mà không
làm gì được Quách Tĩnh cả, mặc dù chàng ta chỉ mới học được có một chiêu
duy nhất nầy mà thôi !
2. Phi Long Tại Thiên 飛龍在天:
Thuộc quẻ Càn trong kinh Dịch; Tượng Cửu Ngũ. Chiêu nầy phải phi
thân lên trên không, rồi từ trên đánh xuống, uy lực vô biên. Quách Tĩnh
phải mất ba ngày mới học xong chiêu thức nầy.
3. Kiến Long Tại Điền 見龍在田 :
Thuộc quẻ Càn trong kinh Dịch; Tượng Cửu nhị. Khi ông Ngư áp sát
Hoàng Dung; Quách Tĩnh đã vận kình vào chưởng trái, chưởng phải đưa
thẳng ra theo thế Kiến Long Tại Điền để phòng hờ Ngư ông tấn công.
4. Hồng Tiệm Ư Lục 鴻漸於陸 :
Thuộc quẻ Tiệm trong kinh Dịch; Tượng Cửu Tam. Khi gặp Mai Siêu
Phong, Quách Tĩnh vội vàng đánh ra hai chưởng "Hồng Tiệm Ư Lục" và "Lợi
Thiệp Đại Xuyên 利涉大川" bức Mai Siêu Phong lùi lại xa xa để cho Hoàng Dung
phi thân lên rường mà chạy...
5. Tiềm Long Vật Dụng 潛龍勿用 :
Thuộc quẻ Càn trong kinh Dịch; Tượng Sơ Cửu. Quách Tĩnh kêu lên
:"Không xong rồi!" tay trái đã bị Mai Siêu Phong nắm lấy tê rần, nên vội
vàng co tay phải lại, hai ngón trỏ và ngón giữa đưa lên, nửa quyền nửa
chưởng đánh vào trước ngực của bà ta, đó chỉ là nửa chiêu của "Tiềm Long
Vật Dụng".
6. Lợi Thiệp Đại Xuyên 利涉大川 :
Thuộc quẻ Di trong kinh Dịch, Tượng Thượng Cửu. Đã dẫn giải về chiêu thức ở trên.
7. Đột Như Kỳ Lai 突如其來 :
Thuộc quẻ Ly trong kinh Dịch; Tượng Cửu Tứ. Quách Tĩnh nghe tiếng
của nàng kêu lên, tinh thần phấn chấn, tay trái đánh một chưởng, do
chính là "Đột Như Kỳ Lai".
8. Chấn Kinh Bách Lý 震驚百里 :
Thuộc quẻ Chấn trong kinh Dịch; Chấn là Hanh. Âu Dương Phong
đánh bồi thêm chưởng thứ hai, chưởng thứ nhất kình phong chưa dứt, thì
chưởng thứ hai đã ập tới. Quách Tĩnh bèn vội vàng đưa cả hai tay lên đẩy
mạnh về phía trước, đó là chiêu Chấn Kinh Bách Lý có uy lực rất mạnh mẽ
trong Hàng Long Thập Bát Chưởng
9. Hoặc Diệu Tại Uyên 或躍在淵 :
Thuộc quẻ Càn trong kinh Dịch, Tượng Cửu Tứ. Quánh Tĩnh đánh ra
chưởng thứ hai là Hoặc Diệu Tại Uyên. Tay trái đánh ra trước, tay phải
lòn dưới tay trái đánh ra sau, chưởng lực đánh thẳng vào bụng của đối
phương.
10. Song Long Thủ Thủy 雙龍取水 :
Chiêu thức nầy có nguồn gốc từ kinh Phật, còn đợi tra cứu.
11. Ngư Diệu Ư Uyên 魚躍於淵 :
Chiêu thức nầy cũng có nguồn gốc từ kinh Phật.
12. Thời Thừa Lục Long 時乘六龍 :
Thuộc quẻ Càn trong kinh Dịch, thuộc Càn Nguyên... Thế trượng
rất mạnh bay về phía Giản Trưởng Lão, Quách Tĩnh nhảy lên phía trước
đứng chặn ở giữa, xuất chưởng Thời Thừa Lục Long đánh về phía trượng
đang phóng tới rất mạnh. Trượng bị nghiêng về một phía, Quách Tĩnh vội
vàng đưa tay trái đón lấy.
13. Mật Vân Bất Vũ 密雲不雨 :
Thuộc quẻ Tiểu Súc trong kinh Dịch, Tiểu quá Lục Ngũ. Quách Tĩnh
xuấy chiêu Mật Vân Bất Vũ, hai chưởng thay nhau đánh về phía trước đầu
của Cừu Thiên Nhận, cánh tay trái gạt đi cây sào phía trước mặt, thân
mình tiếp tục hạ xuống trước mũi thuyền địch.
14. Tổn Tắc Hữu Phu 損則有孚 :
Thuộc quẻ Tổn trong kinh Dịch, Ngươn Kiết. Quách Tĩnh thừa cơ
đứng vững trên mũi thuyền, xuất thêm một chiêu rất ít khi sử dụng trong
Hàng Long Thập Bát Chưởng, đó là chiêu "Tổn Tắc Hữu Phu".
15. Long Chiến Ư Dã 龍戰於野 :
Thuộc quẻ Khôn trong kinh Dịch, Thượng Lục... Nào ngờ chiêu Long
Chiến Ư Dã rất ư áo diệu, có thể thực có thể hư; thấy Cừu Thiên Nhận
chận ngay vai trái của mình, Quách Tĩnh bèn đưa chưởng phải lên đánh
"bùng" một tiếng, đánh ngay vai phải và ngực làm cho Cừu Thiên Nhận bay
luôn ra cửa.
16. Lý Sương Băng Chí 履霜冰至 :
Thuộc quẻ Khôn trong kinh Dịch, Sơ Lục. Quách Tĩnh vội hít sâu
vào, hai khủy tay hơi nâng cao, hữu quyền tả chưởng, một đánh thẳng một
xô ngang, một nhanh một chậm cùng đánh ra một lúc, đó là chiêu Lý Sương
Băng Chí.
17. Đê Dương Xúc Phiên 羝羊觸蕃 :
Thuộc quẻ Đại Tráng trong kinh Dịch, Cửu Tam. Quách Tĩnh tránh
qua hai mũi Thấu Cốt Đinh của Lương Tử Ông, hai tay vừa kiếm vừa chưởng,
ra chiêu Đê Dương Xúc Phiên phóng thẳng vào mình Lương Tử Ông.
18. Thần Long Bãi Vỹ 神龍擺尾 :
Thuộc quẻ Lý trong kinh Dịch.... Lê Sanh nghe phía sau có hơi gió
và vạt áo cũng lay động, trong một thoáng bèn đưa ngược tay ra phía sau
quét ngang một chưởng đúng là chiêu Thần Long Bãi Vỹ.
Đó là 18 chưởng được tìm thấy trên mạng google của bộ "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện".
Các thành ngữ có chữ LONG mà ta thường gặp có :
* TÀNG LONG NGỌA HỔ 藏龍臥虎 : hay NGỌA HỔ TÀNG LONG, là
Rồng ẩn Cọp nằm. Nơi mà rồng cọp ẩn mình. Thường dùng để chỉ nơi các
cao nhân, anh hùng hào kiệt ẩn náo; cũng dùng để chỉ hang ổ của các tay
anh chị, sào huyệt của các băng đảng xã hội đen.
* LONG
NGÂM HỔ KHIẾU 龍吟虎嘯 : là Rồng gầm Cọp rống. Thường dùng để chỉ cái tiếng
tăm thanh thế của những người có quyền thế, của hai kẻ giang hồ, hai tay
anh chị đang gầm gừ với nhau.
* LONG TRANH HỔ ĐẤU 龍爭虎鬥 :
là Rồng và Cọp tranh đấu với nhau. Thường dùng để chỉ hai đối thủ, hai
thế lực ngang tài ngang sức tranh đấu với nhau một cách quyết liệt, chưa
biết mèo nào cắn mỉu nào !
* HÀNG
LONG PHỤC HỔ 降龍服虎 : là Hàng phục cả rồng lẫn cọp, chỉ người có khả năng
siêu việt, có thể làm nên những chuyện phi thường mà người khác không
thể làm được.
* LONG BÀN HỔ CỨ 龍蟠虎踞 : là Rồng
cuộn khúc, Cọp ngồi chồm. Chỉ thế đất hùng vĩ hiểm trở. Theo sách《Ngô
Lục 吳錄》của Trương Bột 張勃 đời Tấn ghi chép : Cuối đời Đông Hán, Lưu Bị
phái Gia Cát Lượng đến Kim Lăng (Nam Kinh ngày nay) để liên kết với
Đông Ngô cùng chống quân Tào Tháo. Gia Cát Lượng đến Kim Lăng thấy phía
đông có dãy Chung Sơn hùng vĩ như rồng uốn khúc, phía tây có Thạch Đầu
Thành như con cọp đang ngồi chồm thủ thế, địa thế vô cùng hiểm trở và
hùng vĩ, bèn khen rằng :"Chung Sơn LONG BÀN, Thạch Đầu HỔ CỨ, thử đế
vương chi trạch 鍾山龍盤,石頭虎踞,此帝王之宅". Có nghĩa : "Núi Chung Sơn như long
bàn, thành Thạch Đầu tựa hổ cứ. Đây quả là chốn cư ngụ của bậc đế vương
!".
* LONG MÃ TINH THẦN 龍馬精神 : Đây là câu
thiệu mà ta thường thấy các chủ nhân ông sau khi ăn Tết xong mở cửa khai
trương lại thường dán trong tiệm hay trong công xưởng, vì các ông chủ
sợ nhân viên sau khi ăn Tết rồi thì uể oải vì còn nhớ cái không khí vui
vẻ của ngày Tết mà làm việc một cách lôi thôi. Nên dán 4 chữ LONG MÃ
TINH THẦN là muốn cho mọi người phấn chấn tinh thần lên xông xáo như
rồng bay ngựa chạy vậy.
Thành ngữ về LONG về RỒNG còn rất nhiều, kể không xiết kể... Vì RỒNG
là linh vật có thể thông thiên triệt địa, lên trời xuống đất, nên mọi
người đều mơ ước, thấy người sang nên muốn bắt quàng làm họ. Người Hoa
thì thường tự hào là LONG ĐÍCH TRUYỀN NHÂN 龍的傳人, có nghĩa là truyền nhân
của RỒNG, là con cháu hậu duệ của RỒNG. Còn người Việt Nam chúng ta thì
cũng thường tự hào rằng mình thuộc dòng giống CON RỒNG CHÁU TIÊN là con
cháu của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ.
Mong rằng trong năm GIÁP THÌN 2024 nầy, mọi người đều cố gắng phát
huy cái truyền thống RỒNG của mình để cho mọi gia đình đều được AN KHANG
THỊNH VƯỢNG, VUI VẺ HẠNH PHÚC và suốt năm cứ bay lượn như RỒNG trên mây vậy.
Mong lắm thay !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Xem Thêm :
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét