Nguyễn Trải(1380-1442) là một nhà thơ, nhà chánh trị, sống dưói thời nhà Hồ và nhà sơ
Lê . Thi đậu Thái Học Sinh năm 1400, ra làm quan cho nhà Hồ. Khi nhà
Minh sang xăm lăng nước ta, cha ông là Nguyễn Phi Khanh không đầu hàng
giặc nên bị bắt giải về Tàu. Nguyễn Trãi đi theo tiễn cha đến ải Nam
Quan thì cha ông khuyên ông trở về lo việc phục thù báo quốc. Khi quân
Mình đặt nền cai trị lên đất nước Đại Ngu, Nguyễn Trãi theo phò Lê Lợi
kháng chiến chống quân xăm lược, ông trở thành một nhà quân sư bày mưu
tính kế đánh giặc đồng thời soạn thảo lời kêu gọi toàn dân nổi lên kháng
chiến . Ngoài ra ông còn soạn văn thư ngoại giao với quân Minh. Sau
khi kháng chiến thành công , vì không chịu nổi bọn gian thần hãm hại,
ông xin vua trừng trị bọn họ, vua không nghe , ông từ quan về ở ẩn tại
Côn Sơn. Năm 1442 toàn thể gia đình ông bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ
Chi Viên.
Theo
TS. Phạm trọng Chánh thì Nguyễn Du có thời gian ba năm yêu cô hàng xóm
Xuân Hương Hồ Phi Mai nơi Gác Tía cạnh đền Khán Xuân, rồi lại về Hồng
Lĩnh, bị quận công Thận Tây Sơn giam 3 tháng vì toan vào Nam theo chúa
Nguyễn Ánh. Nguyễn Du ra Thăng Long trong cuộc tình lỡ làng,người yêu đã
đi lấy chồng anh Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du tìm đến nhà
người bạn văn chương Đoàn Nguyễn Tuấn rồi mới về Quỳnh Hải, Thái Bình
cưới vợ chấm dứt "10 năm gió bụi".
Sau đây là bài thơ của Nguyễn Trãi :
Nguyên tác: Phiên âm Hán Việt:
亂後到崑山感作 Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác一別家山恰十年 Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
歸來松匊半翛然 Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
林泉有約那堪負 Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,
塵土低頭只自憐 Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
鄕里纔過如夢到 Hương lí tài qua như mộng đáo,
干戈未息幸身全 Can qua vị tức hạnh thân tuyền (toàn).
何時結屋雲峰下 Hà thời kết ốc vân phong hạ,
汲澗烹茶枕石眠. Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.
Chù thích :
全(tuyền, âm nữa là toàn)
Côn Sơn:(theo Wikipedia): Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.
Dịch nghĩa :
Sau loạn về Côn Sơn cảm tác
1. Thời gian xa quê hương vừa đúng mười năm
2. Nay trở về, tùng cúc một nửa đã tiêu sơ
3. Đã có lời hẹn với rừng suối mà sao nỡ phụ
4. Trong cát bụi cúi đầu tự thương mình
5. Vừa qua làng, tưởng như giấc chiêm bao
6. Chiến tranh chưa dứt, may mắn được toàn thân
7. Biết đến bao giờ mới được làm nhà dưới núi mây
8. (để) Múc nước suối nấu trà, gối lên đá mà ngủ.
Dịch thơ :
Sau loạn về Côn Sơn cảm tác
Mười năm phiêu giạt kiếp long đong
Trở lại, cúc tùng úa héo bông
Đã hẹn suối rừng sao nỡ phụ
Thương mình cát bụi cúi đầu trông
Binh đao chưa dứt may còn sống
Làng cũ vừa qua tưởng mộng xong
Ước muốn dựng nhà mây phủ núi
Nguyễn Cang
Đền thơ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét