Tiếng
nói của bất cứ một dân tộc nào cũng vậy, đều biến thiên theo thời gian,
không gian, và nhất là trong giao tiếp giữa các dân tộc. Biến thiên,
nhưng là biến thiên để hoàn thiện.
Tiếng
Việt cổ cũng vậy. Xưa, có rất nhiều tiếng còn khá thô mà người thời nay
nghe vô cùng lạ tai. Không nói tới tiếng gốc của cả đại chủng trong đó
có các nhóm Bách Việt, ngay cả tiếng Việt vào thế kỷ 17, khi các vị linh
mục Dòng Tên Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… qua Việt Nam và với mong muốn tạo
nên một loại chữ phục vụ cho việc truyền giáo (và cũng nhờ đó mà ngày
nay ta có được chữ Quốc Ngữ), đã vô cùng vất vả khi nghiên cứu dùng chữ
cái Latin để ký âm cho tiếng Việt.
Do
các vị đều là những nhà trí thức, nhà ngôn ngữ học… nên khỏi phải nói
tới công cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng cho việc ký âm. Như câu sau đây trong
Kinh Lạy Cha, bản gốc in năm 1632, đã cho thấy công trình này vất vả như
thế nào:
“Cia ciúm toi oẽ tlen bloèi ciúm toi nguyẽn daim Cia cã sám”.
Và theo chính tả được Alexandre de Rhodes chuẩn hóa trong Tự điển Việt Bồ La in năm 1651, câu kinh này đã được viết lại như sau:
“Cha chúng tôi ở tlên blời, chúng tôi nguiẹn danh Cha cả sáng” (Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng).
Phải
lan man như vậy để thấy rằng tiếng Việt ngày xưa hãy còn thô thiển như
thế nào. Nhưng cho tới ngày nay, bốn thế kỷ sau, tiếng Việt cũng như chữ
Việt đã trở nên hoàn thiện tới mức không còn thể nào hoàn thiện hơn
được nữa.
Trở
lại với sự biến thiên của tiếng nói. Biến thiên theo không gian, thời
gian là điều đương nhiên. Nhưng biến thiên do giao tiếp qua lại giữa các
dân tộc với nhau mới là yếu tố quan trọng mà rõ nét nhất là tiếng Hán
Việt.
Trước tiên, cần minh định rằng tiếng Hán Việt là tiếng Trung Hoa đọc theo giọng Việt. Theo “Trung Quốc sử đại khái”,
cổ thời người Trung Hoa tự gọi tên nước là Hoa Hạ, hoặc cũng có khi chỉ
xưng là Hoa hoặc là Hạ. Về sau, họ mới gọi là Trung Hoa. Chữ Hoa ở đây
không phải bông hoa mà phải hiểu là tinh hoa, và Trung Hoa tức là cái
tinh hoa nằm ở trung tâm (hiện nay thì họ dùng chữ Hoa là bông hoa vì lẽ
viết ít nét, gọn hơn).
Nhưng
về sau, do hãnh diện về nhà Hán nên họ đã đồng hóa với Hoa và tự gọi
mình là Hán nhân tức người Hán, và Hán ngữ tức tiếng Hán. Và do vậy, thứ
tiếng Hoa đọc theo kiểu riêng của người Việt được gọi tên là tiếng… Hán
Việt (nhưng đáng lý ra phải gọi là tiếng Hoa Việt).
Thực sự là hai tiếng “Hán Việt” này,
tuy chỉ có hai tiếng thôi, nhưng đã làm hao tổn biết bao nhiêu là giấy
mực của các học giả và các nhà ngôn ngữ học cả Hoa lẫn Việt cũng gần
trăm năm. Điển hình là nhà ngôn ngữ học người Hoa, Vương Lực, với bài
viết “Hán Việt ngữ nghiên cứu” dài 128 trang đăng trên tập san
học thuật của Đại học Lĩnh Nam, Hongkong, năm 1948. Trong bài viết này
Vương Lực dựa theo nguồn gốc mà chia tiếng Việt thành hai loại là tiếng
Việt (nguyên văn: Việt ngữ) và tiếng Hán Việt (nguyên văn: Hán Việt
ngữ). Nhưng riêng trong tiếng Hán Việt, ông đã dựa theo thời điểm hình
thành mà chia làm ba loại là tiếng Hán Việt cổ, tiếng Hán Việt, và tiếng
Hán Việt hóa. Tuy cách phân loại này còn lủng củng và bất hợp lý nhưng
lại được hầu hết các nhà ngôn ngữ học Việt Nam tán thành và tiếp nhận.
Tuy
nhiên, ở đây chúng ta không phân tích về tính hàn lâm của hai tiếng Hán
Việt mà chỉ đơn giản là tản mạn đôi điều về vai trò của thứ tiếng này
trong tiếng Việt.
Từ rất nhiều năm, chúng ta đã có khuynh hướng giữ gìn “sự trong sáng của tiếng Việt” và
tìm cách loại bỏ dần những tiếng Hán Việt quen dùng, thay vào đó bằng
tiếng Việt thuần túy. Cụ thể như trực thăng, thay bằng máy bay lên
thẳng, thật vô cùng chính xác. Hay như thủy quân lục chiến, thay bằng
lính thủy đánh bộ (riêng cụm tiếng này cũng “hơi bị” lộn xộn vì trong đó
vẫn còn vướng lại hai chữ thủy và bộ)… Tại miền Nam trước năm 1975, đã
có chủ trương bỏ chữ “văn phòng”, thay vào đó là chữ “nhà làm việc”.
Như
vậy, rõ là chúng ta thấy có sự phân biệt giữa hai loại tiếng, Hán Việt
và tiếng Việt thuần túy mà ta vẫn quen gọi là thuần Việt. Tuy nhiên, nói
riêng về hai tiếng thuần Việt thì ở đây lại là cả một vấn đề. Và là một
vấn đề không nhỏ.
Vì
thực sự, tiếng Việt không phải là một thứ tiếng riêng. Và trước khi có
được một quốc gia là Văn Lang có nhà nước đầu tiên với các vua Hùng vào
thế kỷ thứ 7 trước công nguyên (TCN), thì vào thời Hồng Bàng (tính từ
năm 2879 TCN, tức trước đó 22 thế kỷ), tại khu vực phía nam sông Dương
Tử là lãnh thổ của các nhóm Bách Việt như Đông Việt, Mân Việt, Âu Việt,
Lạc Việt… Do sự biến thiên theo khu vực địa lý rồi lại lai tạp nhau
trong giao tiếp, các nhóm này trở thành có tiếng nói khác nhau tuy vẫn
còn giữ được một số tiếng tương đồng do vốn cùng chung một gốc đại
chủng.
Do
vậy, tiếng Việt chúng ta ngay từ thuở xa xưa đã mang trong mình nhiều
thứ tiếng anh em cùng gốc nên thực sự là không thể có được tiếng thuần
Việt mà phải nói đúng rằng tiếng nước ta hiện nay là “tiếng Việt”. Vì cho dù có pha trộn bao nhiêu đi nữa thì tới nay tiếng Việt đã trở nên hoàn thiện và giữ vai trò là tiếng Quốc Ngữ.
Trở
lại với tiếng Hán Việt. Chúng ta có thể thấy rõ trước mắt rằng qua ba
thời kỳ Bắc thuộc với tổng cộng một ngàn năm, trong vị thế người bị trị,
chúng ta bắt buộc phải giao tiếp với họ bằng tiếng Hoa. Dĩ nhiên là
tiếng quan thoại, thứ tiếng chính thống, vì họ có khá nhiều giọng của
nhiều tỉnh khác nhau.
Tuy
nhiên, khi người Việt nói chuyện với nhau về các văn bản hành chính
hoặc về văn chương thi phú của họ, thì lại phiên âm theo giọng Việt cho
gần gũi dễ nói. Thành ra, tự nhiên mà tạo thành một thứ tiếng riêng tức
tiếng Hán Việt.
Thực
sự, tuy cũng là tiếng đơn âm như tiếng Việt, nhưng tiếng Hoa nói lên
vần điệu không hay, khó nói và có âm hưởng khó chịu. Thử nghe một bài
thơ Đường tuyệt tác của thế kỷ thứ 8 sau đây, được phiên âm theo pinyin
(bính âm) của tiếng Hoa:
Yuè luō wū tí shuāng mǎn tiān
Jiāng fēng yú huǒ duì chóu miánGū Sū chéng wài Hán Shān sìYè bàn zhōng shēng dào kè chuán.
Thật lạ lẫm và kỳ dị, nhưng bài thơ tuyệt tác này chính là bài Phong kiều dạ bạc lừng danh của nhà thơ Trương Kế, mà nếu đọc theo tiếng Hán Việt chính là:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiênGiang phong, ngư hỏa đối sầu miênCô Tô thành ngoại Hàn San tựDạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Rõ là đọc theo tiếng Hán Việt thật dễ nói, thi vị, và đầy cảm xúc. Và đây cũng chính là một trong hai nguyên nhân đã tạo nên sự hình thành tiếng Hán Việt. Còn nguyên nhân kia, ai cũng biết, chính là sự phản kháng âm thầm và bền bĩ đối với kẻ thống trị. Là người Việt với nhau, cơn cớ gì khi chuyện trò cùng nhau lại đi dùng tiếng nói của kẻ ngoài?
Như vậy, với câu hỏi tiếng Hán Việt có chăng, câu trả lời ở đây là có. Vì chúng ta đã lấy tiếng Hoa của họ và chuyển hóa theo cách đọc của mình mà thành, do vì hai nguyên nhân như đã nói ở trên.
Tuy nhiên, lại có một điều cần phải nhắc tới. Ai cũng nói là chúng ta đã vay mượn từ tiếng nước ngoài để làm phong phú cho tiếng nước mình. Thử ngẫm, vay mượn là vay mượn tiền bạc, vật chất chớ tiếng nói làm sao mà vay mượn? Trong giao tiếp bán buôn giữa các dân tộc, dùng tiếng nói của nhau là chuyện thường tình. Thích thì cứ dùng chớ chẳng phải vay mượn. Và trong trường hợp tiếng Hán Việt, chúng ta đã chuyển tiếng Hán của người Hoa thành tiếng Hán Việt của người mình. Bây giờ mà đưa câu Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên cho người Hoa đọc, thì ắt hẳn anh chàng sẽ mù tịt, vì giờ đây câu này đã trở thành một câu tiếng Việt của người Việt.
Và như vậy, với câu hỏi tiếng Hán Việt có chăng, câu trả lời bây giờ lại là không. Đúng theo lý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh, sắc tức thị không. Vì giờ đây nó đã trở thành tiếng Việt. Cả ngàn, trăm năm nay, không chỉ hòa nhập mà nó đã hòa quyện với tiếng Việt và trở nên một thành phần trong tiếng Việt. Như về quốc gia, chúng ta dùng những tiếng độc lập, tự do, hạnh phúc…; về giáo dục chúng ta dùng những tiếng hiệu trưởng, giáo viên, học sinh…; về y tế là những tiếng bệnh viện, bệnh nhân, viện phí, y tá…; về giao thông là xa lộ, lưu thông…; về kinh tế là công ty, giám đốc, kế toán, bảo vệ… Rất nhiều và rất nhiều. Chúng bao quanh ta và trở thành quen thuộc tới mức chúng ta coi là tiếng thuần Việt chớ không còn là tiếng Hán Việt nữa.
Thực sự, tiếng Hán Việt vốn ẩn chứa rất nhiều ưu điểm. Trước tiên là tính hàm súc. Có những tiếng chỉ hai chữ nhưng nếu diễn đạt bằng tiếng Việt phải cần tới nhiều chữ hoặc thậm chí cả câu. Như chỉ hai chữ “dân tộc” thôi, nếu “dịch” ra thì phải là “người và họ tộc trong nước”. Thứ hai là tính trang trọng. Chúng ta gọi là Bộ Giáo Dục chớ đâu có gọi là Bộ Dạy Dỗ? Và thứ ba là tính thi vị. Chúng ta đặt tên con gái là Thiên Kim chớ đâu có đặt tên là Ngàn Vàng?
Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây và bây giờ, là không cần thiết phải phân biệt tiếng Hán Việt với tiếng Việt nữa mà hãy mạnh dạn xóa bỏ danh xưng Hán Việt đi để chỉ còn hai chữ tiếng Việt thân yêu. Chúng ta đâu phải dân tộc Hoa để mãi hãnh diện về nhà Hán mà cho tới nay nhiều người Việt vẫn tự xưng mình là “anh hùng hảo hán”?
Tuy nhiên, thiết nghĩ vẫn còn một điều nữa cần nhắc nhở nhau rằng, dẫu sao thì do vốn là từ tiếng Hoa nên đã dùng thì phải dùng cho đúng nghĩa. Như hai tiếng "nhất thiết" ta vẫn quen dùng sai là "bắt buộc", thường trong câu "không nhất thiết phải như thế". Nhưng hai tiếng "nhất thiết" trong tiếng Hoa có nghĩa là "tất cả" (nhất thiết học sinh tức tất cả học sinh). Hay như hai tiếng "xán lạn" nghĩa là "rực rỡ", ta vẫn dùng sai là "sáng lạng"! Ngoài ra, do không hiểu rõ nên chúng ta thường hay dùng trùng lặp cũng khá nhiều: hà cớ gì, khả dĩ có thể, còn tồn tại, tái lập lại… vốn là những hạt sạn làm mất đi nét đẹp trong tiếng Việt.
BÙI KIM SƠN
H.Phi chuyển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét