3. NĂM HỌC CUỐI Ở TRƯỜNG LÀNG TÔI.
Lên
lớp Ba, tôi học với Thầy Tám Long. Thầy đồng thời giữ chức trưởng giáo
trường sơ học Tân Hòa Thành (coi như hiệu trưởng của trường). Ngày đầu
năm học, sau khi điểm danh xong, Thầy gọi tôi lên và lấy cây thước gỗ
một mét đo chiều cao, rồi Thầy nói lớn lên cho cả lớp nghe “đúng một mét
nhen mấy em”! Tôi là đứa vừa nhỏ tuổi vừa thấp lùn nhứt lớp. Tôi mắc cỡ
đỏ mặt và khi đi học về, vừa bước vô nhà là kể lại liền cho cả nhà
nghe. Mọi người cười nghiêng ngữa, còn riêng má tôi thì lầm bầm rủa ông
Thầy “thiệt là ác đức, làm cái chuyện hổng nên”. Vào thời đó, người ta
kiêng cử chuyện cân, đo con nít, chỉ có ở nhà thương mới làm.
Có
lẽ được Thầy chú ý nên tôi học rất khá, thường xuyên được thầy tuyên
dương trước lớp. Nhưng cái kỹ niệm không quên của năm lớp Ba lại là lần
thất bại thảm hại của tôi trong ngày Ông Thanh tra tiểu học về trường.
Đó là một ông già cao lớn, mặc bộ đồ bốn túi, miệng ngậm “ống vố”, coi
thiệt là oai vệ. Mỗi bước chân ông đi kèm theo tiếng giày gõ cồm cộp
trên nền gạch lớp học càng làm cho đám học trò xanh mặt. Ông Thanh tra
đi tới đi lui từ đầu lớp tới cuối lớp và đưa ra những câu hỏi kiểm tra
học trò. Câu đầu tiên ông hỏi về các phương hướng trong môn địa lý. Khi
ông cầm tấm bản đồ trãi lên bàn thầy giáo và chỉ về bên trái rồi đưa ra
câu hỏi đó là hướng gì thì cả lớp im re. Câu hỏi thuộc về bài học địa lý
“Bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc” này Thầy mới dạy 2 tuần trước, nhưng
lại nhằm cái ngày tôi nghỉ học vì bệnh. Nhớ lời Thầy dặn hôm qua là Ông
thanh tra hỏi câu gì thì các em cũng phải mạnh dạn giơ tay dù biết trả
lời hay không, tôi và hầu hết các bạn lần lượt giơ tay. Khi bị Ông Thanh
tra chỉ tay gọi, tôi trả lời sai ngay từ lần đầu. Tôi nhớ Ông Thanh tra
lắc nhẹ đầu và rút vai, vậy là tôi lại tiếp tục cho đến lần trả lới thứ
ba thì mới đúng! Ông thanh tra quay chúng tôi chừng 5,7 câu hỏi thì
chuyển sang chỉ định một số trò đem tập lên để ông xem việc chép bài vở.
Hôm sau, Thầy tôi phát thưởng cho những trò đã trả lời giỏi mỗi đứa 5
viên phấn trắng. Riêng tôi cứ đinh ninh sẽ bị rầy, nhưng Thầy lại tỏ ý
khen chỗ “dạn dĩ” và cũng được thưởng 2 viên phấn, bằng với những trò
được ông thanh tra xét tập. (Viên phấn trắng đối với đám học trò nhỏ của
tụi tôi thời đó rất quý vì học trò trong lớp học đều thường xuyên phải
xài phấn trắng, đi kèm với bảng đen)
Cuối
năm lớp Ba, tôi được phần thưởng “ưu hạng” và lại còn được Thầy giao
cho làm đại diện học sinh lên sân khấu đọc cảm tưởng trong lễ phát
thưởng. Khi Thầy hỏi tôi có quần dài để bận khi lên sân khấu không, tôi
tự nhiên nghĩ ngay tới cái quần dài trong bộ “bi-ra-ma” mà tôi thỉnh
thoảng phải bận vào mùa lạnh hoặc mỗi khi bị bệnh, nên tôi lẹ làng trả
lời là có. Đến khi về nhà, tôi đã làm cho cả nhà được dịp cười ngạo cho
một trận khi kể lại câu chuyện. Sau đó tôi được thầy cho đổi lại bộ “lễ
phục” khi lên sân khấu là áo sơ mi trắng, bỏ vô trong quần cụt đen. Cũng
may là tôi có áo sơ mi trắng, trường hợp hiếm hoi trong lớp (chớ quần
tây thì tôi nào có được đâu). Thầy soạn bài “diễn văn tri ân”
và căn dặn tôi phải đọc trước nhiều lần để khi lên sân khấu khỏi vấp
váp cũng như phải bình tỉnh và đọc rõ ràng . Tôi bỏ mấy ngày học thuộc
lòng luôn, cho chắc ăn. Tới khi lên sân khấu, tôi đọc mau và lớn tới nổi
Thầy phải chạy lên đứng sau tấm màn mấy lần nhắc tôi đọc chậm và nhỏ
lại.
Bây
giờ hồi tưởng lại những năm học ở trường xã (1957-1959) thật là quảng
thời gian tươi đẹp nhất của tuổi thơ. Đó là lúc quê tôi được sống trong
cảnh thanh bình và tuy cuộc sống chưa sung túc nhưng mọi mặt đều đang
được cải thiện rõ rệt. Trên quảng đường tôi đi học, cầu đường đã được tu
bổ, mở rộng. Con lộ đất từ nhà việc xã lên các ấp phía Tây giáp với
Đồng Tháp Mười được mở rộng và kéo dài lên cuối xã với một cây cầu ván
mới rộng rải thay cho cây cầu khỉ. Tại ngã tư con đường này, một ngôi
trường 2 phòng học kiên cố đã được xây dựng thay cho cái phòng học ộp ẹp
mà tôi đã trãi qua lớp học đầu đời, và tự nhiên quán xá bắt đầu mọc lên. Đầu tiên là một cái tiệm hàng xén của
vợ chồng anh Sáu Ba, kiêm luôn tiệm may (chị Sáu là thợ may) và tiệm
hớt tóc (nghề tay trái của anh Sáu). Kế đó là tiệm hớt tóc của Chú Hai,
chỉ mở cửa từ trưa tới chiều.
Vui
nhứt là tới mùa khô, khi lúa mùa đã được gặt xong, mặt ruộng khô ráo và
trở thành một cái sân banh ngay sát ngã tư. Quanh sân banh vài cái chòi
bán nước giải khát lập tức được dựng lên bên đường, phục vụ cho đám
khán giả cứ chiều chiều là tụ họp ì xèo. Những ngày đó, chém chết đám
học trò con trai tụi tôi trên đường tan học về cũng tấp vô tới tối.
Không chỉ làm khán giả, tụi tôi còn giành nhau chạy lượm banh mỗi khi
banh văng ra khỏi sân. Được ôm “trái banh da” đá vô
sân một cái là quá sướng. Đặc biệt vào những ngày cuối tuần thường có
các trận đấu sôi nổi diễn ra, khi thì giữa các ấp, khi thì giữa các xã
lân cận. Lúc đó thì tụi con nít hết kiêng cử mà leo lên đứng đầy trên
mấy gò mã gần bên sân banh để coi cho rõ.
Mùa
khô, cũng là lúc dân làng rỗi rãnh vì mùa lúa đã xong từ cuối tháng
Giêng âm lịch, vụ lúa sau sớm lắm cũng cuối tháng Ba mới có “mưa sa đầy
đồng” để tháng Tư thì bắt đầu ra đồng dọn bờ, cày ruộng. Cho nên thời
gian này hoạt động văn nghệ cũng xập xình nổi lên. Không nhớ ai đứng ra
tổ chức, mà mấy anh chị thanh niên cùng nhau tập diễn kịch, ca vọng cổ,
tân nhạc rồi dựng sân khấu trên sân trường xã trình diễn rộn ràng, thật
vui. Rồi còn Đội chiếu bóng lưu động dưới tỉnh cũng thường về và cái sân banh ruộng
được chọn làm nơi phục vụ tiện lợi trăm bề. Chỉ cần phát loa a-lô a-lô,
một-hai-ba!.., căng tấm màn màu trắng lên, khi trời sụp tối một đổi là
người lớn, con nít nườm nượp kéo tới, và giờ chiếu phim bắt đầu.
Những cuộc vui lành mạnh trong khung cảnh làng quê thanh bình có sức quyến rủ không dễ ngó lơ nên ông anh lớn nhứt của tôi “bị kêu quân dịch” khi còn đang học dở dang bậc trung học, vì đã 20 tuổi mà thi 2 năm vẫn rớt cái bằng “đít-lôm”
(bằng Trung học đệ nhất cấp, tương đương tốt nghiệp cấp II ngày nay).
Cũng nên nói thêm vào những năm thanh bình đó, người ta không trốn khi
bị giấy của tỉnh gởi về xã kêu trình diện để đi quân dịch, nên gọi là “kêu”, chớ không như từ Sáu mươi trở đi, là những năm chiến tranh, gọi là “bị bắt quân dịch”. Anh tôi đi học trễ nên đến 18, 19 tuổi mới hết lớp Đệ Tứ (lớp 9 ngày nay). Ba má tôi đỗ thừa tại anh “mê chơi” nên
đi thi 2 năm, tổng cộng 4 kỳ mà vẫn rớt. Mà có lẽ cũng đúng, cuối tuần
từ Mỹ tho về tới là anh thường xuyên xáp vô những anh chị cùng trang lứa
trong làng. Trưa, chiều thì đá banh, tối thì văn nghệ văn gừng. Học lớp
Ba mà tôi đã được Má giao nhiệm vụ viết thơ cho anh khi anh đóng quân
tuốt ngoài Quảng Trị. Được bà Chị lớn, là học sinh Nữ Trung học cho coi
cuốn lưu bút của chị, tôi thuộc lòng mấy câu thơ và đưa liền vô lá thơ
gởi ông anh để diễn tả tình cảm của mình: “chim xa rừng thương cây nhớ
cội, người xa người tội lắm người ơi”! Báo hại ông anh được một bữa cười
lộn ruột.
Vào
thời đó, Xã Tân Hòa Thành của tôi là xã nhỏ (ít dân) nên chỉ có trường
sơ học, ai muốn học lên thì phải qua xã Phú Mỹ hoặc xã Tân Hội Đông mới
có trường tiểu học. Bãi trường chừng vài tuần thì một số học trò lớp ba
chúng tôi qua xã Phú Mỹ để thi vô lớp Nhì. Học hết sơ học, khá nhiều
người kết thúc chuyện học vì nhiều lý do khác nhau, như nhà quá nghèo
hoặc trò ta “ngán chuyện học như cơm nếp”. Cũng có vài gia đình không nghèo nhưng chỉ muốn cho con học để “biết đọc biết viết là được rồi, ở nhà tập mần chuyện đồng áng cho quen rồi cưới vợ, gã chồng”, vì có người học hết lớp Ba đã “tồng ngồng” 13,
14 tuổi rồi. Vậy là sau 2 năm, tới lúc tôi phải từ giã ngôi trường làng
của mình và rồi đây cũng sẽ phải giã biệt cái tên Lê Văn Mười. Cái tên
không có khai sanh, nhưng nhờ nó mà tôi hoàn tất 3 năm học đầu tiên
trong đời.
Mỹ Tho, 30/11/2023
Lê Tấn Tồn
Ảnh trên mạng :Hoc trò chụp khoảng na8m1875-90 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét