Đăng Phạm
Ngày nay, trên thế giới người ta đều biết đến Singapore như một đảo quốc giàu có bất chấp diện tích nhỏ hẹp, cùng với việc nằm trên tuyến đường hàng hải tấp nập nhất thế giới. Tuy nhiên ít ai biết rằng, vào những năm 60s thế kỷ trước, vào lúc mà Singapore còn gần như vô danh trên bản đồ thế giới, đã có một quốc đảo khác mang hình ảnh gần như hoàn toàn giống Singapore ngày nay: nhỏ bé, giàu có, đa sắc tộc, nằm trên tuyến hàng hải quan trọng, gắn bó với nước Anh…Đó là quốc đảo Zanzibar ở châu Phi. Tuy nhiên, do nhiều biến cố lịch sử, vào cùng thờigian mà Singapore chập chững ra đời, quốc gia Zanzibar đã bị xóa khỏi bản đồ thế giới theo một cách đầy đau đớn.
Bài viết này là một bản tóm tắt ngắn gọn về lịch sử của đảo quốc Zanzibar từ lúc hình thành đến khi biến mất.
1/ Sơ lược Zanzibar và lịch sử đời đầu.
Zanzibar là một quần đảo ngoài khơi Đông Phi, chỉ cách bờ biển nước Tanzania ngày nay vài chục km. Quần đảo gồm 2 đảo: đảo lớn Zanzibar (đảo chính, còn có tên là Unguja) và đảo nhỏ Pemba. Diện tích 2 đảo là 2.650 km2.
Dù nằm biệt lập với đất liền nhưng điều bất ngờ là các bằng chứng khảo cổ cho thấy đã có người sống ở Zanzibar cách đây 22.000 năm. Những thổ dân đầu tiên của Zanzibar được ghi nhận sinh sống thường xuyên gọi là Hadimu và Tumbatu. Những thổ dân này không có trên lục địa châu Phi. Dù có màu da ngăm đen nhưng ngày nay vẫn chưa có bằng chứng hay công trình nghiên cứu nào kết luận được liệu thổ dân Hadimu và Tumbatu có từ đại lục châu Phi di cư sang Zanzibar hay không. Những người ủng hộ thuyết Zanzibar thuộc về châu Phi thì dựa vào ngôn ngữ của thổ dân Zanzibar với ngôn ngữ của người Bantu châu Phi. Những người phản đối thuyết này thì dựa vào bằng chứng rằng thổ dân Zanzibar rất kém đóng thuyền, và vì vậy bác bỏ khả năng họ di cư từ đại lục châu Phi. Vì vậy ngày nay, tranh cãi về nguồn gốc thổ dân Tumbatu cũng là tranh cãi lớn nhất về lịch sử Zanzibar.
Dù thổ dân Zanzibar khó đi đến các vùng đất khác (do kém kỹ thuật đóng thuyền), nhưng ngược lại những người bên ngoài dễ dàng tiếp cận hòn đảo này.Vì thế từ rất sớm, những thương nhân từ khắp nơi trên Ấn Độ Dương, từ Arab, Ba Tư, Ấn Độ và có khi cả Nam Dương,…đã đến Zanzibar. Một bằng chứng không thể chối cãi là việc tìm thấy gốm cổ Sumer và Assyria tại Zanzibar. Ở chiều ngược lại, tại thành phố cổ Eshnunna thuộc văn minh Sumer, người ta tìm thấy dây chuyền làm từ Hổ phách. Vào thời điểm đó, nếu không phải từ châu Mỹ thì hổ phách chỉ có thể tìm thấy ở Madagascar.
Dù gì đi nữa, thì chắc chắn một điều là các thương nhân đã sớm biết đến Zanzibar. Họ thường lợi dụng gió mùa để đi đến một vịnh nhỏ kín gió ở phía Tây đảo Zanzibar. Tại đây, họ đã lập nên khu định cư đầu tiên là Phố Đá (Stonetown), nay là Di sản thế giới của UNESCO. Trong quá trình định cư, ban đầu người Arab đã cố gắng giữ hòa hoãn nhất có thể với thổ dân địa phương. Họ chấp nhận quy phục một thủ lĩnh người Hadimu gọi là ”Mwenyi Mkuu”, hoặc một thủ lĩnh người Tumbatu gọi là ”Sheha”. Nhưng thực tế những thủ lĩnh này chỉ có quyền lực danh nghĩa, quyền lực thực sự trên đảo được chia đều cho những tay buôn giàu có từ Ba Tư, Arab. Người Arab cũng có những nỗ lực Hồi Giáo hóa quần đảo, với việc xây dựng nhà thờ Hồi giáo đầu tiên ở Nam Bán Cầu tại cực Nam đảo Zanzibar.
Người Ba Tư được coi là đặt tên cho quần đảo. Tên “Zanzibar” là bắt nguồn từ tiếng Ba Tư:زنگبار (Zangi-bar) có nghĩa là ”bờ biển Đen”.
Suốt nhiều thế kỷ, Zanzibar trở thành trung tâm buôn bán tuy không lớn của Ấn Độ Dương. Người Ấn Độ, Arab, Ba Tư Indonesia,..mang đến đây nhiều hương liệu, gia vị đặc trưng của họ như: đinh hương, đậu khấu, quế, hạt tiêu, cọ sợi,…khiến nó mang cái tên ”quần đảo Gia vị” cùng tên với quần đảo Gia vị nổi tiếng nhất thế giới ở Maluku, Indonesia. Người ta còn tranh cãi là những gia vị trên đảo Zanzibar thực chất là do người Indonesia mang tới để trồng chứ không phải có sẵn. Hiện nay, người dân đã tiến lên trồng cả các gia vị này trên đảo, ngày nay trở thành hàng xuất khẩu chính của Zanzibar.
Không chỉ mang từ châu Á tới, những thương nhân còn đến lục địa châu Phi săn bắt, cướp phá mang ngược lại Zanzibar và về Á Châu. Những sản phẩm chủ yếu họ mang về từ châu Phi là ngà voi, vàng và nô lệ. Từ Zanzibar, một dải ven biển dài hàng nghìn cây số dọc bờ biển Đông Phi đã trở thành nơi buốn bán lớn trong nhiều thế kỷ, hình thành nên ”Bờ biển Swahili” nổi tiếng của thế giới Arab.
Trong số những thương nhân, người Arab với lợi thế khoảng cách địa lý gần hơn, đã bắt đầu ở lại lâu dài trên đảo từ thế kỷ thứ 10, chiếm quyền kiểm soát Stone Town (Phố Đá), di sản thế giới của UNESCO. Người Arab cũng dần kiểm soát đường buôn bán của Zanzibar, nắm luôn cả đường mậu dịch trên biển Đông Phi.Họ còn mang cả nô lệ từ châu Phi đến Zanzibar, đồng thời truyền đạo Hồi cho những người này cũng như thổ dân trên đảo. Thế kỉ thứ 10 đã bắt đầu xác lập Zanzibar trở thành quốc gia dưới tay người Arab và Hồi giáo. Đây chính là đặc điểm lớn nhất tồn tại song hành cùng lịch sử độc lập của Zanzibar.
2/ Thời kỳ thuộc Bồ Đào Nha và thuộc Oman.
Tính từ thế kỷ thứ 10, người Arab đã kiểm soát Zanzibar thêm 5 thế kỷ nữa trước khi bị gián đoạn bởi những người thám hiểm Châu Âu.
Dấu ấn lịch sử lớn của Zanzibar xuất hiện vào năm 1499. Vasco da Gama trên đường đến Ấn Độ đã đặt chân lên Zanzibar năm 1499. Người Bồ Đào Nha ghi nhận Zanzibar là ”nơi buôn bán không quá sầm uất, có nhiều sản vật như Ấn Độ,…”, ”giới tinh hoa Arab kiểm soát và nắm nô lệ da đen”. Vì biết thế lực của người Arab ở đây không mạnh, năm 1505, hạm đội của Francisco de Almeida đã chiếm quần đảo và sáp nhập vào Đế quốc Bồ Đào Nha. Người Bồ Đào Nha kiểm soát nơi này 2 thế kỷ.
Giai đoạn Bồ Đào Nha chiếm đóng Zanzibar không có gì đáng kể. Điều đáng kể ở đây là công cuộc chiếm đóng của Bồ Đào Nha trên bán đảo Arab, cụ thể là với vùng Oman. Đây là một câu chuyện dài, nhưng được vắn tắt lại như sau:
Trước kia, ở vùng Đông Nam bán đảo Arab có 2 vùng nằm cạnh nhau, ngăn cách bởi dãy núi Al Hajar. Phía trong dãy núi là vùng Oman, gọi là Nội lục Oman, là nơi sinh sống của các bộ lạc Arab bảo thủ đứng đầu bởi thủ lĩnh gọi là ‘Imam’. Các bộ tộc Oman lạc hậu về nông nghiệp, thường chỉ chăn nuôi du mục và tổ chức thành các chiến binh cướp phá các vùng khác, nên họ tương đối giỏi chiến trận. Ngược lại, ngoài dãy Al Hajar là vùng duyên hải gọi là Muscat, lấy theo tên cảng lớn nhất là cảng Muscat. Người dân Muscat thế tục hơn, lại sớm phát triển thương mại trên Ấn Độ Dương nên giàu có hơn. Nhưng họ lại thường xuyên bị các lực lượng bên ngoài tấn công, đôi khi từ chính các chiến binh Oman từ nội lục, nhưng chủ yếu là từ người Ba Tư. Để giải quyết các vấn đề của cả 2, Oman và Muscat thường bắt tay nhau, theo đó các thương gia Muscat sẽ trả tiền và lương thực cho các bộ tộc Oman để đổi lấy việc các chiến binh Oman sẽ giúp họ đánh lại các đội quân xâm lược từ Ba Tư. Mối giao hảo này giúp cả 2 lãnh thổ sống yên bình bên cạnh nhau trong nhiều thế kỷ.
Nhưng sau đó, kẻ thù mới xuất hiện. Chuyến thám hiểm của người Bồ Đào Nha khám phá ra Muscat và họ chiếm lấy thành phố năm 1507 bằng cách giết hại và trục xuất thương nhân Arab. Từ đó, người Bồ Đào Nha kiểm soát vùng Duyên hải Muscat trong 143 năm, từ năm 1507 đến năm 1650. Nhưng quá trình chiếm đóng đó không phải là yên bình tuyệt đối. Người Bồ Đào Nha liên tục các bộ lạc Oman tấn công. Thậm chí năm 1552, trong một cuộc viễn chinh ra Ấn Độ Dương, hạm đội hùng mạnh của Đế quốc Ottoman đã tấn công và đại thắng trước quân Bồ Đào Nha ở Muscat. Nhưng Ottoman không chiếm thành phố, do mục tiêu quan trọng hơn của họ là thành phố cảng Basra thuộc Iraq.
Cuộc tàn phá của Ottoman đã làm lực lượng Bồ Đào Nha suy yếu đáng kể. Đến năm 1624, một thủ lĩnh ”Imam” từ vùng nội lục Oman tên là Yaruba đã thống nhất các bộ lạc Oman tấn công người Bồ Đào Nha ở Muscat. Đến năm 1650, họ giải phóng Muscat. Tại đây, triều đại của Yaruba đã có được sự ủng hộ của những thương nhân Muscat, tạo nên một liên minh giàu có và hùng mạnh giữa Muscat và Oman.
Triều đại Yaruba không dừng tham vọng của mình. Biết thế lực của Bồ Đào Nha đã suy yếu, người Oman và Muscat đã liên minh với người Anh tấn công Bồ Đào Nha khắp Ấn Độ Dương. Trong quá trình chinh phạt,quân Oman chiếm nhiều vùng ven biển của Ba Tư, Ấn Độ, Pakistan,liên tục cướp phá các cảng Ấn Độ. Trên lục địa châu Phi, họ liên minh với người Somali, đánh đuổi người Bồ Đào Nha dọc ven biển châu Phi. Các thành phố lớn giàu có dọc bờ biển Đông Phi từ Mogadisu, Mombasa, Daar es Salaam,…đều rơi vào tay người Oman. Người Oman kết thúc mở rộng đế chế của mình ở miền Bắc Mozambique, là nơi xa nhất về phía Nam trong lịch sử Thế giới Hồi giáo. Trong quá trình đó, năm 1652, quân Oman chiếm Zanzibar.
Năm 1652, Zanzibar bị người Oman chinh phục, tiếp tục là một phần của thế giới Arab và Hồi giáo!
3/ Sự thịnh vượng của Zanzibar và thời kỳ Zanzibar độc lập.
Dù năm 1652, người Oman đã lấy Zanzibar nhưng phải đến năm 1698, Zanzibar mới chính thức được sáp nhập. Lúc này trên bán đảo Arab, 2 vùng Muscat và Oman đang là một Liên bang lỏng lẻo, nhưng càng ngày càng thống nhất hơn.
Dưới sự cai trị của người Oman, cộng với nền tảng Tư bản chủ nghĩa do người Bồ Đào Nha để lại, thời kỳ này Zanzibar phát triển vô cùng thịnh vượng.
Nông nghiệp trên đảo chuyển theo hướng nông nghiệp đồn điền lớn, với các loại gia vị như đinh hương chiếm chủ yếu. Điều này làm tăng đáng kể sản lượng gia vị trên đảo, đủ để cung cấp cho châu Âu. Các thương nhân châu Âu không còn phải đi tới tận Đông Ấn để mua hương liệu nữa. Để tôn vinh vai trò của Zanzibar trong thời kỳ này, các thương nhân châu Âu đặt cho Zanzibar cái tên ”quần đảo Gia Vị” – ”spice archipelago”, cùng tên với quần đảo Maluku ở Indonesia. Nhưng cùng với quá trình đồn điền hóa, là quá trình tái phân bố đất đai. Nhiều vùng đất canh tác của thổ dân trong thời kỳ này bị người Oman chiếm đoạt biến thành đồn điền, và người da đen trên đảo bị bắt vào làm công trong các đồn điền đó.
Cùng với hương liệu, thương mại Ấn Độ Dương là yếu tố thứ 2 giúp Zanzibar giàu có. Do cấu tạo địa chất vô cùng đặc biệt, trên đảo Zanzibar có nước ngọt thường xuyên (khác với Singapore). Điều này giúp họ xây dựng cảng biển lớn ngay trên đảo. Hàng năm, các thương nhân từ Arab, Ấn Độ, Ba Tư,…mang đủ loại sản vật từ gạo, đường, vải, sắt, chà là,…đến Zanzibar để đổi lấy mai rùa, hổ phách, dừa, đinh hương, ngà voi, sừng tê giác và nô lệ. Hoạt động buôn bán này biến khu vực Tây Ấn Độ Dương trở thành tuyến hàng hải giàu có nhất thế giới lúc đó.
Yếu tố cuối cùng đóng góp vào sự giàu có của Zanzibar là việc cướp bóc bờ biển châu Phi. Đây là yếu tố khiến nhiều nhà sử học châu Phi gọi Zanzibar là ”vương quốc làm giàu trên xương máu người và voi”. Dưới thời cai trị Zanzibar, người Oman thường xuyên tổ chức tấn công, cướp phá tàn bạo các bộ lạc châu Phi dọc khắp bờ biển Đông Phi. Đôi lúc họ tấn công vào tận sâu trong nội địa đến nỗi như năm 1892, họ đã tấn công cả người Bỉ đang thám hiểm Congo.
Các chuyến cướp phá của người Oman thường mang lại lợi nhuận khủng khiếp. Vô số của cải châu báu bị mang đi kèm theo số lượng lớn nô lê. Nếu trước kia, người Oman mua nô lệ thông qua một số vương quốc châu Phi chuyên bắt nô lệ trong nội địa bán cho người Arab, thì nay họ trực tiếp bắt nô lệ, tiêu diệt cả các vương quốc trước kia từng bán nô lệ cho mình. Đây là câu chuyện đã xảy ra với Vương quốc Lunda – một vương quốc đã bị người Oman hủy diệt để độc chiếm nguồn nô lệ.
Với nguồn lợi khủng khiếp đó, Zanzibar nhanh chóng trở thành một bộ phận rất quan trọng của Đế quốc Oman. Nhờ kiểm soát được Zanzibar, Oman nắm được đường mậu dịch trên Ấn Độ Dương, chia sẻ với người Anh. Zanzibar giúp đế quốc Oman trở nên rất giàu có. Nhận thấy tầm quan trọng của quần đảo này, năm 1840 đã xảy ra một sự kiện hiếm có trong lịch sử :Quốc vương Sayyid Said bin Sultan của Oman đã rời đô từ Muscat trên bán đảo Arab đến Phố Đá ở Zanzibar. Quần đảo nhỏ bé chơi vơi giữa Ấn Độ Dương trở thành kinh đô của một đế quốc Oman rộng lớn, một sự kiện thú vị của lịch sử.
Tuy nhiên, cũng vì quyết định lịch sử này, mà lịch sử sau đó của Zanzibar đã bị thay đổi đáng kể, mà quan trọng nhất là việc Zanzibar trở nên độc lập.
Chuyện là vua Sayyid Said của Vương quốc Hồi giáo Muscat và Oman (lúc này là thống nhất giữa Muscat và Oman) có đến 36 người con. Khi dời đô đến Phố Đá năm 1840, ông đã để con trai thứ 3 của mình là Sayyid Thuwaini ở lại cai quản Muscat. Thay vào đó, con trai thứ 6 của ông là hoàng tử Sayyid Majid được theo cha đến Zanzibar cai quản kinh đô mới.
Tuy nhiên, năm 1856, Quốc vương Sayyid Said qua đời đột ngột, không kịp chỉ định kế vị. Theo danh sách kế vị, con trai thứ 3 là Sayyid Thuwaini sẽ kế vị đầu tiên. Nhưng con trai thứ 6 là Sayyid Majid cho rằng người kế vị phải ở kinh đô Phố Đá nên tự cho mình quyền kế vị. Cuộc tranh giành giữa 2 anh em đẩy đất nước trước nguy cơ chiến tranh. Để tránh việc này, họ đã nhờ người Anh đứng ra đàm phán.
Sự trung gian của người Anh đã dẫn đến một quyết định không có lợi cho bên nào. Theo đó, họ quyết định chia đôi Vương quốc Hồi giáo Muscat và Oman thành 2 phần. Phần thứ nhất là ”Vương quốc Muscat và Oman” do Sayyid Thuwaini làm vua, kiểm soát các vùng đất trên bán đảo Arab, ven vịnh Ba Tư, Nam Á và một số đảo. Phần còn lại là ”Vương quốc Zanzibar” do Sayyid Majid cai quản, kiểm soát quần đảo Zanzibar và toàn bộ các vùng đất Đông Phi. Đây là dấu mốc Zanzibar trở thành một Vương quốc độc lập, thậm chí là một “Đế quốc”.
Sau sự phân chia này, cả 2 vương quốc ở Oman và Zanzibar đều yếu đi trông thấy. Sau khi mất đi Zanzibar, vương quốc Oman của Sayyid Thuwaini bị mất đi nguồn lợi khổng lồ từ thương mại, trở về với nền nông nghiệp lạc hậu trên bán đảo Arab. Để bù đắp thiệt hại này, người Anh đề nghị hàng năm Vương quốc Zanzibar của Sayyid Majid phải trả một khoản tiền vàng cho Oman. Nhưng khoản tiền này không đủ để lấp đầy khoảng trống tài chính, và cũng nhanh chóng bị hủy bỏ sau một thời gian. Vương quốc Oman ngày càng bị thiếu hụt về kinh tế, buộc họ phải bán một số vùng đất chiếm được cho người Ba Tư. Họ cũng phải vay tiền của Pháp và Anh, hậu quả là càng ngày Oman càng bị phụ thuộc vào Vương quốc Anh. Về sau, quốc vương Oman phải chấp nhận làm xứ bảo hộ của Anh Quốc.
Đối với Zanzibar, dù vẫn giữ được “mỏ vàng”nhưng lại mất đi lực lượng quân sự mạnh để bảo vệ. Hậu quả là Zanzibar bị mất các vùng đất ở Đông Phi vào tay các Đế quốc phương Tây khi họ mở rộng xâm chiếm châu lục này. Somali mất vào tay người Ý, Kenya được nhượng cho Anh, Tanganyika (đất liền nước Tanzania ngày nay) mất cho Đức,… Phải nhờ sự can thiệp của Anh, Zanzibar mới thoát khỏi nguy cơ bị Đức xâm lược năm 1890, sau khi nước này chiếm được Tanganyika. Nhưng cũng do hiệp ước Anh kí với Đức, Zanzibar trở thành lãnh thổ bảo hộ của Anh. Vậy là đến cuối thế kỷ 19, cả 2 Vương quốc đều bị biến thành xứ bảo hộ.
*Chiến tranh Anh-Zanzibar: cuộc chiến ngắn nhất lịch sử!
Sự bảo hộ của Anh gây ra một số phản đối trong nội bộ Zanzibar. Năm 1896, quốc vương Zanzibar là Hamad bin Thuwaini thân Anh qua đời. Cháu trai ông là Khalid bin Bargash lên nắm quyền. Nhưng Khalid bin Bargash là một người chống lại sự bảo hộ của Anh. Điều này khiến người Anh không ưa Bargash, và muốn đưa một người có tư tưởng thân Anh hơn là Hamud bin Muhammed lên nắm quyền.
Vào 8 giờ sáng ngày 27/8/1896, quân Anh ra tối hậu thư, buộc vua Khalid bin Bargash phải thoái vị, nếu không sẽ bị tấn công. Vua Khalid bin Bargash không trả lời. Đến 9h ngày 27/8/1896, sau 1 giờ không nhận được hồi đáp, tàu của Hải quân Anh nã pháo vào cung điện Hoàng gia của Zanzibar. Lục quân Anh cũng đổ bộ lên đảo. Quân Zanzibar có 12 khẩu pháo và khoảng 3.000 quân cấm vệ bảo vệ Hoàng cung, nhưng đã bị đợt pháo kích của Anh phá hủy.
Đến 9h45, quân Zanzibar đầu hàng!!!
Toàn bộ cuộc chiến chỉ kéo dài trong 45 phút và chỉ có 1 thủy thủ Anh bị thương nhẹ, trong khi 500 binh lính và dân thường Zanzibar thương vong. Vua Khalid bin Bargash thoái vị và để Hamud bin Muhammed lên ngôi, chấp nhận nền bảo hộ của Anh đối với Zanzibar. Vậy là từ năm 1890, Zanzibar kết thúc thời kỳ độc lập của mình.
Dưới chế độ bảo hộ của Anh, chính quyền đã có một số hành động tích cực, mà đáng ghi nhận nhất là bãi bỏ chế độ nô lệ. Đây là công lao của nhà truyền giáo vĩ đại người Anh, bác sĩ David Livingstone. Ông đã thuyết phục vua Hamud bin Muhammed bãi bỏ chế độ nô lệ lâu đời nhất thế giới. Thời điểm đó, mỗi năm có từ 50.000 nô lệ được đưa đến Zanzibar. Một số họ được các chủ nô Zanzibar mua lại, số còn lại bị đưa xa hơn đến châu Á, Trung Đông. Điều kiện sống cực khổ khiến mỗi năm có trung bình 30% nô lệ Zanzibar bị chết. Sắc lệnh giải phóng nô lệ của người Anh đã giải phóng gần 200.000 nô lệ đang bị giam giữ, đồng thời bồi thường cho các chủ nô. Để ghi công Livingstone, người ta đã xây một nhà thờ lớn ngay trên nền khu chợ nô lệ lâu đời của Zanzibar, nơi ghi dấu máu và nước mắt của những người nô lệ suốt hàng nghìn năm lịch sử.
4/ Cách mạng Zanzibar – cách mạng xóa sổ một đất nước!
Người Anh cai quản Zanzibar trong 67 năm. Thời gian đó, đảo quốc này dù không còn là nơi buôn bán nô lệ, con đường buôn bán cũng không còn sầm uất sau khi kênh đào Suez được sử dụng rộng rãi, nhưng vẫn là một quốc gia giàu nhờ buôn bán hương liệu. Hơn nữa, đảo quốc có một sự đa sắc tộc, với sự chung sống của thổ dân địa phương, người Arab, người châu Âu, người Nam Á (chủ yếu là Ấn Độ), người châu Phi,…Điều này làm người ta liên tưởng đến Singapore sau này.
Tuy nhiên, nếu so với Singapore, Zanzibar vẫn có nhiều hạn chế. Các vua của Zanzibar, dù ảnh hưởng của Anh nhưng vẫn ít nhiều bảo thủ, không chịu Tây hóa như Singapore. Điều này cản trở Zanzibar trong việc công nghiệp hóa. Đất nước gần như chỉ làm giàu bằng buôn bán hương liệu nhờ vào bóc lột người da đen trong đồn điền. Đường phố khá ít oto, đường nhựa ít được xây dựng. Đất nước Zanzibar giống như bị kẹt trong cái bóng của một Vương quốc Arab thế kỷ 19.
Hơn nữa, trong xã hội Zanzibar tồn tại nhiều bất công. Dù đã giải phóng nô lệ, thân phận người da đen ở Zanzibar vẫn rất thấp kém. Họ thường bị các chủ lao động người Arab, Nam Á bóc lột trong các đồn điền, không có quyền hành chính trị dù dân số rất đông. Năm 1964 dân số Zanzibar có khoảng 300.000 người (tính cả kiều dân nước ngoài), trong dó người gốc Phi chiếm đa số. Về tôn giáo, đại đa số dân cư theo đạo Hồi.
Từ những năm 1960s, phong trào độc lập ở châu Phi lan rộng. Ngày 10 tháng 12 năm 1963, Zanzibar được nước Anh trao trả độc lập. Zanzibar tiếp tục chế độ quân chủ lập hiến dưới quyền Sultan, cũng tiếp tục là một quốc gia Arab và Hồi giáo. Nhưng cũng từ đây, do ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc châu Phi dâng cao trên lục địa, tại Zanzibar bắt đầu xuất hiện mầm mống nổi dậy.
Xung đột giữa người gốc Phi, kể cả gốc Phi theo Hồi Giáo với người Arab lên cao. Người Arab chỉ có 50.000 người, cùng với 20.000 người Ấn Độ nhưng lại nắm đa số đất đai, thương mại, rất giàu có và có quyền lực xã hội. Người Ấn Độ nắm quyền trồng gia vị, có lợi nhuận cao. Trong khi đó, người da đen phần lớn bị dồn vào các đồn điền làm thuê, dân số đông nên thường xuyên bị thiếu đói, không có quyền lực xã hội. Lực lượng cảnh sát bảo vệ quốc vương Jamshid bin Abdullah cũng do người Arab nắm. Trong tình hình đó, sự xâm nhập của chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Cộng sản cũng lan tới Zanzibar. Một số người châu Phi theo chủ nghĩa Cộng sản đã lập nên đảng Afro-Shirazi, một đảng cánh tả chính ở Zanzibar. Cùng lúc đó, trong nội bộ người Arab cũng hình thành phe Cộng sản, gọi là Đảng Umma.
Cuối cùng, yếu tố thúc đẩy cách mạng ở Zanzibar là việc nước đối diện với họ qua eo biển – Tanganyika, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Marxist, Julius Nyerere, trở thành một nước XHCN. Tất cả yếu tố trên làm phong trào dân tộc lẫn phong trào Cộng sản ở Zanzibar tăng cao.
Từ giữa năm 1963, tình hình bắt đầu rối ren ở Zanzibar. Bạo lực giữa người Phi và người châu Á bùng phát ở nhiều nơi, làm nhiều người chết. Tình hình bất ổn kéo dài sang năm 1964, nhà vua Jamshid bin Abdullah cầu viện người Anh nhưng bị từ chối.
Đến 3h sáng ngày 12/1/1964, cách mạng Zanzibar đã bùng nổ. Gần 2000 người gốc Phi, trong đó khoảng 600 người có vũ trang, tràn ra đường phố chém giết người Arab. Các cơ quan chính phủ thất thủ, thủ tướng và nhà vua phải bỏ chạy. 61 công dân Mỹ, trong đó có 16 nhân viên của một trạm theo dõi vệ tinh của NASA, cũng bị bắt giữ. Lực lượng cảnh sát bảo vệ nhà vua đầu hàng. Cách mạng thắng lợi nhanh chóng trong một vài ngày. Có khoảng 80 người chết và hàng trăm người bị thương trong các cuộc bạo loạn, chủ yếu là người Arab.
Tuy nhiên, những gì xảy ra sau cách mạng mới là điều đáng nói. Đó là cuộc trả thù tàn khốc và đẫm máu nhằm vào người Arab. Thảm kịch này có thể đã không bao giờ được biết đến, nếu không có một sự tình cờ.
Vào ngày diễn ra cách mạnh, một đoàn làm phim người Ý, trong lúc đang quay phim cho bộ phim tài liệu ”Africa Addio”, đã bay qua eo biển đến Zanzibar. Tại đây, họ đã tình cờ quay được những thước phim gây sốc cả thế giới (tuy nhiên không sốc với những người xem cả bộ phim vì bản thân phim tài liệu này đã có quá nhiều cảnh kinh dị khác). Trong các đoạn phim, người ta nhìn thấy hàng dài tù nhân Arab bị dẫn đến mộ tập thể, bị hành quyết tập thể, bị người da đen chôn sống, xác chết người Arab chồng chất mà tác giả miêu tả là ”những bóng trắng giống ma hơn là người”, những người Phi hoảng hốt khi thấy máy bay, cảnh một máy bay Đức cùng phi hành đoàn bị đốt cháy,…Cuối cùng là cảnh quay rất đau lòng khi hàng chục nghìn người Arab tuyệt vọng chạy ra bờ biển để trốn khỏi cuộc thảm sát. Để hôm sau khi đoàn phim quay lại, bãi biển đầy những xác người.
Cho đến nay, có thể khẳng định những cảnh phim này vẫn là tư liệu video duy nhất về các vụ tàn sát tại Zanzibar năm 1964, và được coi là ”thước phim có giá nhất, làm nên cả bộ phim”. Không có bất cứ thước phim nào khác ghi lại cuộc thảm sát này. Cũng trong phim ”Africa Addio”, người ta tiết lộ điều tương tự cũng xảy ra ở đất liền Tanganyika, nơi người Arab cũng bị giết hại.
Bộ phim ”Africa Addio” là một phim là tài liệu thật gần 100%, nên rất nhiều cảnh máu me, giật gân như lột tả sự hoang dại của châu Phi mới độc lập: núi tay người bị chặt ở Rwanda, quay trực tiếp cảnh săn voi, giết thú rừng, ngược đãi gia súc, cảnh hành quyết công khai, lính đánh thuê chơi đùa với đầu lâu, cảnh chiến đấu trực tiếp,…Nhưng đó cũng là những tư liệu rất thật và có tính lịch sử cao, đáng để xem nếu muốn tìm hiểu giai đoạn lịch sử châu Phi hậu thuộc địa.
Trên chính thức, các tài liệu công bố có đến 20.000 người Arab và Nam Á đã bị giết hại dã man. Hàng chục nghìn người khác đã bỏ chạy đến Oman lánh nạn. Người chỉ huy các vụ tàn sát này là John Okello, một người cánh tả gốc Uganda của đảng Afro-Shirazi. Sự tàn bạo của Okello khiến ông bị các đảng viên Umma người Arab vốn ủng hộ cách mạng tẩy chay và đẩy sang một bên, phải trở về Uganda. Ngoài ra, do 99% dân số là Hồi giáo, nhưng Okello lại theo đạo Cơ đốc, nên cũng khiến ông bị ghét trong chính nội bộ đảng Afro-Shirazi. Cuối cùng, đảng Afro-Shirazi và đảng Umma, cả 2 đều là Đảng Xã hội chủ nghĩa, đã tổ chức liên minh cầm quyền, chia sẻ quyền lực cho cả người gốc Phi và Arab. Nhưng dân số Arab và Nam Á đã chạy hết khỏi đảo. Năm 1988, dân số Zanzibar chỉ còn 158.000 người, trong đó người Arab chỉ còn hơn 1000, chủ yếu là Đảng viên đảng Umma.
Về bản chất, cuộc cách mạng Zanzibar là cuộc cách mạng của CHỦ NGHĨA DÂN TỘC CỰC ĐOAN, có sự xúc tác nhỏ của chủ nghĩa Cộng sản, mặc dù có nhiều người tranh cãi cho rằng chủ nghĩa Cộng sản mới đóng vai trò chủ yếu. Điều này thể hiện bằng những phản ứng sau cách mạng.
Cuộc cách mạng Zanzibar mang hơi hướng Xã hội chủ nghĩa khiến người Anh vô cùng lo ngại. Trong ngày 12/1, quân Anh ở Kenya đã trực chiến sẵn sàng can thiệp. Tuy vậy, người Anh vẫn có một sự tin tưởng rằng những người cách mạng ở Zanzibar chủ yếu là Chủ nghĩa dân tộc, không phải chủ nghĩa Cộng sản. Những người Cộng sản chỉ chiếm thiểu số trong đảng Afro-Shirazi cầm quyền. Vì vậy, cuối cùng kế hoạch can thiệp của Anh bị hủy bỏ. Ngoài ra, còn có tin Israel đã hỗ trợ cho cuộc cách mạng chống lại người Arab. Báo New York Times tháng 1 năm 1964 viết ”Zanzibar trên bờ vực Cộng sản – Cuba của châu Phi”, thể hiện sự lo ngại Zanzibar trở thành nước XHCN.
Chính phủ Zanzibar lên nắm quyền ngay lập tức công nhận bởi Cộng hòa dân chủ Đức (Đông Đức) và CHDCND Triều Tiên. Đến tháng 2, các cố vấn Liên Xô, Đông Đức, Trung Quốc đã có mặt ở Zanzibar. Nhà cách mạng Che Guevara phát biểu tại Cuba vào ngày 15 tháng 8 rằng “Zanzibar là bạn của chúng tôi và chúng tôi trao cho họ một chút giúp đỡ nhỏ nhoi của mình, là sự giúp đỡ anh em của chúng tôi, sự giúp đỡ cách mạng của chúng tôi tại thời điểm cần thiết” được cho là ám chỉ đến sự hỗ trợ của cố vấn Cuba trong cách mạng. Tuy nhiên trên thực tế chưa có bằng chứng cho thấy cố vấn Cuba có mặt ở Zanzibar.
Tuy vậy, sau này có sự lo ngại các thành viên cực tả trong đảng Umma (đảng của người Arab) tiến hành đảo chính. Người Anh đe dọa nếu đảng Umma đảo chính, biến Zanzibar thành ”nước Cộng sản” thì sẽ cho máy bay hủy diệt Zanzibar. Cùng lúc đó, các lãnh đạo gốc Phi trong đảng Afro-Shirazi cầm quyền cũng lo sợ các đảng viên Arab của Umma. Lo ngại đảo chính đã khiến các lãnh đạo gốc Phi có một quyết định lịch sử: xin gia nhập Tanganyika. Đây chính là quyết định khai tử đất nước Zanzibar của họ.
Tanganyika làmột quốc gia đối diện với Zanzibar qua eo biển, lúc trước được biết đến là ”thuộc địa” của Zanzibar. Cuộc hợp nhất này đã tạo nên đất nước mới: ”Cộng hòa thống nhất Tanganyika và Zanzibar”, sau đổi tên thành Cộng hòa thống nhất Tanzania, chính là nước Tanzania ngày nay. Mục đích của sự sáp nhập là để ngăn ngừa nguy cơ người Arab ở Zanzibar đảo chính. Sau đó, chính phủ ở Tanzania còn dời thủ đô khỏi thành phố Dar es Salaam do cho rằng thành phố ”mang yếu tố Arab”, bất chấp Dar es Salaam đã là thủ đô của đất nước trong hàng trăm năm.
Sau sáp nhập, dân cư Tanganyika đã tràn sang Zanzibar, biến tiếng Swahili trở thành ngôn ngữ lớn nhất ở đây, vượt qua tiếng Arab. Đó là sự kiện chấm dứt vai trò của Zanzibar với vai trò quốc gia Arab và Hồi giáo, trở thành một phần của châu Phi. Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói Zanzibar đã ”vong quốc”. Đảo quốc Zanzibar đã biến mất trên bản đồ thế giới, chấm dứt một lịch sử huy hoàng của các Sultan Arab trong khu vực, cũng chấm dứt một đảo quốc thịnh vượng nhất trên Ấn Độ Dương. Ngày nay, khi nhắc đến một đảo quốc nhỏ nhưng giàu có, người ta có lẽ chỉ còn biết đến Singapore mà thôi!
Hiện tại ở Zanzibar, cách mạng 1964 là một sự kiện quan trọng bậc nhất. Ngày Cách mạng Zanzibar được chính phủ Tanzania xác định là một ngày nghỉ lễ công cộng; được kỷ niệm vào 12 tháng 1 hàng năm. Zanzibar là một phần lãnh thổ Tanzania, nhưng độc lập tương đối. Zanzibar có chính phủ, quốc hội, bầu cử, hiến pháp riêng, nhưng chung tiền tệ với Tanzania. Đặc biệt, Zanzibar vẫn có đội bóng đá riêng, giải Vô địch quốc gia riêng và tham dự giải vô địch Đông Phi, nhưng họ lại không phải thành viên FIFA. Tình trạng này khá giống ”một quốc gia, hai chế độ” của Trung Quốc, nên đôi khi người ta gọi Zanzibar là ”Hồng Kong của Châu Phi”.
Trên thực tế, đảo Zanzibar vẫn còn ít nhiều sự thịnh vương, nếu so sánh với các vùng khác ở Tanzania. Zanzibar vẫn rất nổi tiếng trên bản đồ du lịch thế giới. Bên cạnh là một hòn đảo du lịch phát triển, nơi buôn bán gia vị sầm uất, Zanzibar ngày nay đôi lúc vẫn bùng phát bạo lực, và thường xuyên bị cáo buộc gian lận bầu cử. và bạo lực của cảnh sát gốc Phi với cư dân Arab.
Tham khảo:
- Slaves, spices, & ivory in Zanzibar (Abdul Sheriff)
- Phim tài liệu ”Africa Addio” (1966)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét