MỘT CÁCH ĐẶT TỪ MỚI TRONG TIẾNG
NHẬT
- TỪ NGUYÊN CỦA
KANKÔ 観光 (QUAN QUANG) -
Nguyễn
Sơn Hùng
Ý “du
lịch” trong tiếng Việt
Trong
tiếng Việt người ta dùng từ du lịch hoặc du
ngoạn để chỉ việc đi thăm viếng những nơi đặc biệt
như danh lam (1) thắng cảnh hoặc có nội dung gì nổi
tiếng. Từ Điển Tiếng Việt Phổ Thông của Viện Ngôn Ngữ Học (2013)
giải thích nghĩa của du lịch như sau: “đi xa cho biết xứ
lạ khác với nơi mình ở”. Và du ngoạn: “đi chơi ngắm
cảnh”. Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức (1970) giải thích du
lịch: “đi chơi các nơi xa để biết cảnh, tục xứ người”;
du ngoạn: “đi ngắm xem phong cảnh”; du lãm
遊覧:
“đi xem phong cảnh đẹp”. Khác biệt giữa 2 từ sau cùng là
phong cảnh thông thường (du ngoạn) và phong cảnh
đẹp (du lãm). Tự điển này giải thích nghĩa của từ
phong cảnh như sau: “cảnh tự nhiên do núi
sông, cây cỏ, nhà cửa hòa hợp”.
Du
lịch
遊歴,
du ngoạn
遊玩
và
du lãm
遊覧
đều là
từ Hán Việt. Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh (1932) giải thích
du lịch: “chu du các nơi”; du ngoạn: “chơi
nhởi với một cảnh vật gì”; du lãm: “chơi xem các nơi
cảnh đẹp”.
Ý “du
lịch” trong tiếng Nhật
Trong
tiếng Nhật cũng có các từ du lịch
遊歴
(yuureki),
du lãm遊覧nhưng
không có từ
du
ngoạn
遊玩.
Tiếng Trung Quốc có từ
du
ngoạn
遊玩.
Nghĩa
của du lịch trong tiếng Nhật là “đi bộ
đến các nơi, hết chỗ này đến chỗ khác”. Đồng nghĩa với từ này
là tuần lịch
巡歴
hoặc lịch du
歴遊.Tuy
nhiên theo từ điển Kôjien
広辞苑,
từ điển đại biểu của Nhật Bản du lịch:“đi các xứ, các nước”
không đề cập đến phương tiện đi bộ.
Tuy
nhiên ngày nay người Nhật thường dùng 3 từ sau để diễn tả ý du
lịch trong tiếng Việt: tabi
旅
(lữ)
, ryokô
旅行
(lữ
hành), kankô
観光(quan
quang).
Tabi (lữ)
trong
tiếng Nhật có nghĩa là “rời căn nhà của mình đang sống để đi
đến một nơi khác trong một khoảng thời gian”. Ryokô (lữ
hành) tương tự như tabi (lữ); tabi là tiếng
thuần Nhật, ryokô là tiếng Hán Hòa (Nhật).
Kankô
(quan quang) bao gồm nghĩa Ryokô (lữ hành)
nhưng thêm vào ý nghĩa xem các thắng cảnh hoặc dấu tích văn hóa,
lịch sử, tôn giáo, và đặt trọng vào phần sau hơn.
Ngày
nay để diễn tả ý du lịch người Nhật dùng 3 từ nói trên, từ
yuureki (du lịch) có trong tự điển nhưng hầu như không nghe
nói đến trong thực tế.
Từ
nguyên của Kankô
観光
(quan
quang)
Theo
Nhật Bản Đại Bách Khoa Toàn Thư (Encyclopedia Nipponica), từ Kankô
観光(quan
quang) lần đầu tiên được Mạc phủ Tokugawa sử dụng vào năm
1855 để đặt cho quân hạm bằng gỗ chạy bằng hơi nước do Hòa Lan
biếu tặng. Tên tàu là Kankô maru (maru丸
(hoàn)
thường được kèm theo sau tên của tàu). Tên này được dùng với mục
đích biểu thị uy thế và quyền lực của Nhật Bản với hải ngoại.
Xuất
xứ của
観光
(quan quang) lấy từ hào từ lục tứ (2)
của quẻ Phong Địa Quán trong kinh Dịch: quan quốc chi
quang, lợi dụng tân vu vương
観国之光 利用賓于王.
Nghĩa đen có thể hiểu như sau.
Quan quốc chi quang:
xem
ánh sáng (quang vinh) của một quốc gia.
Lợi
dụng tân vu vương:
dùng
để làm khách gần gũi với vua.
Ý nói
xem xét những điều hay của các nước để mở rộng kiến thức và dùng
kiến thức này để được vua tiếp đãi như khách (tân
賓)
bên cạnh vua để tư vấn cho vua. Nghĩa ban đầu của quan quang観光
là
thị sát chế độ, văn vật (điều
hay) của các nước
chuyển thành ý nghĩa đi du lịch các nước để mở rộng kiến thức.
Quan
観
ngoài
nghĩa nhìn xem, quan sát còn có nghĩa cho thấy. Do
đó, quan quang
観光
còn
hàm chứa ý nghĩa cho các nhân vật quan trọng của nước ngoài
thấy được điều hay vẻ đẹp của đất nước mình.
Từ
kankô (quan quang) được dùng để dịch từ tourism của
tiếng Anh từ sau giữa thời Minh Trị nhưng thật sự được phổ biến
rộng rãi sau 1923. Vào năm 1930 bộ Đường Sắt Nhật Bản thành lập
cục Kokusai Kankô (Du lịch quốc tế).
Năm
1963 Nhật Bản đặt ra luật căn bản về du lịch (kankô) (Pháp
luật số 107 năm 1963). Với chính sách phát triển đất nước bằng du
lịch, vào năm 2006 Nhật Bản đổi mới toàn bộ luật pháp nói trên
thành Pháp luật số 117 năm 2006. Một điểm đáng chú ý là ý tưởng
phát triển quốc gia bằng du lịch đã được Matsushita Kônosuke, nhà
sáng lập công ty Panasonic hiện nay, đề xuất từ năm 1954 (3).
Các từ
hoặc tên gọi có xuất xứ từ kinh Dịch (4)
Tên
quân hạm đầu tiên của Nhật Bản Kanrin Maru (Hàm Lâm Hoàn)
Năm
1853 Matthew Calbraith Perry, Phó đề đốc hải quân Mỹ, đến Nhật Bản
yêu cầu mở cửa giao thương. Năm 1854 Nhật Mỹ Hòa Thân Điều Ước
được ký kết. Cùng năm Mạc phủ sáng lập hải quân. Năm 1855, và Hòa
Lan tặng Kankô maru cho sở Truyền Tập Hải Quân ở
Nagasaki như đã nói trên. Sau đó, Mạc phủ giao cho Hòa Lan đóng
thêm 2 quân hạm Kanrin Maru
咸臨丸
(Hàm
Lâm Hoàn) và Chôyô Maru
朝陽丸
(Triều
Dương Hoàn). Tên Kanrin
咸臨
(Hàm
Lâm) xuất xứ từ kinh Dịch. Chôyô (Triều Dương) có ý
nghĩa là mặt trời mọc từ hướng Đông, biểu tượng của Nhật Bản.
Tên
Kanrin
咸臨
(Hàm
Lâm) lấy từ hào từ sơ cửu và cửu nhị (2)
của quẻ Địa Trạch Lâm. Hào từ của sơ cửu và cửu nhị của quẻ
này viết theo thứ tự như sau:
Hàm
lâm, trinh, cát
咸臨,
貞吉:
cùng tới, giữ chính đạo thì tốt.
Hàm
lâm cát, vô bất lợi
咸臨,
吉, 无不利: cùng tới,
tốt, không gì là không lợi.
Hàm
咸có
nghĩa là cùng đồng tâm hiệp lực; Lâm
臨
có nghĩa là tới. Ý của 2 hào nói cùng đồng tâm hiệp lực tiến tới,
ứng phó sự việc là tốt, không có gì là bất lợi. Đó cũng là ý nghĩa
của người đặt tên quân hạm muốn nói. Tàu này là tàu đầu tiên của
Nhật Bản xuyên qua Thái Bình Dương để đưa phái đoàn Nhật Bản sang
Mỹ để ký kết Nhật Mỹ Tu Hảo Thông Thương Điều Ước. Fukuzawa
Yukichi, một trong những nhà khai sáng của Nhật Bản, cũng đã sang
Mỹ trên tàu này.
Từ
“cách mạng”
Từ
cách mạng có xuất xứ từ thoán/soán truyện (giải thích của
thoán/soán từ) (2) do Khổng tử viết cho quẻ Trạch
Hỏa Cách như sau. Vì dài nên ở đây chỉ trích dẫn phần cuối có
chứa từ cách mạng.
Thiên địa cách nhi tứ thì thành, Thang, Võ cách mạng, thuận
hồ thiên nhi ứng hồ nhân, cách chi thời đại hĩ tai
天地革而四時成,
湯武革命,
順乎天而應乎人,
革之時大矣哉.
Cụ Phan Sào Nam giải thích như sau: “…trời đất biến dịch luôn, bốn
mùa thay đổi hoài, có như thế thời vạn vật mới sinh trưởng thành
tựu….
Thang,
Võ sở dĩ phải cách mạng như thế, cũng chỉ là thuận với đạo trời mà
ứng với lòng người”. Về chi tiết xin vui lòng xem sách của cụ.
Niên
hiệu Minh Trị, Đại Chánh
Niên hiệu Meiji
明治
(Minh
Trị, 1868~1912) xuất xứ từ một phần của chương 5 của Thuyết Quái
Truyện (2) do Khổng tử giải thích ý nghĩa các quẻ của
kinh Dịch: Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ. Hưởng minh
nhi trị
聖人南面而聽天下.
嚮明而治:
Thánh nhân quy mặt về hướng Nam cần nên nghe rõ ý muốn của dân
chúng mà trị nước cho sáng suốt.
Niên hiệu Taishô
大正
(Đại
Chính, 1912~1926) xuất xứ từ một phần thoán/soán truyện của quẻ
Địa Trạch Lâm trong kinh Dịch: Đại hanh dĩ chính. Thiên chi
đạo dã
大亨以正.
天之道也:
lấy việc thông suốt lớn làm đúng, đó là đạo trời (nghĩa đen). Ý
nói nghe ý kiến dân chúng để trị nước là chính trị đúng; tương tự
với ý của niên hiệu Minh Trị.
Nguyễn
Sơn Hùng
4/5/2022
Ghi
chú
(1)
Danh lam: chữ Phạn già lam là chùa Phật. Vậy danh lam là
cảnh chùa có tiếng (Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh).
(2)
Theo cụ Phan Sào Nam, các quẻ trong kinh Dịch do Phục Hy đặt ra.
Thoán/soán từ là lời đoán, lời giải thích ý nghĩa của quẻ do Văn
vương nhà Chu đặt ra cho 64 quẻ. Mỗi quẻ có 6 hào. Hào từ do Chu
Công Đán con của Văn vương đặt ra cho 384 hào. Từ “truyện” đi sau
các từ thoán/soán để chỉ các giải thích của “từ” của Văn vương và
Chu Công Đán. Khổng tử soạn Thập Dực để giải thích thêm các ý
nghĩa thâm sâu của “từ”. Thập Dự gồm có 10 truyện: Văn Ngôn, Đại
Tượng Truyện, Tiểu Tượng Truyện, Hệ Từ Thượng Truyện, Hệ Từ Hạ
Truyện, Thuyết Quái Truyện, Tự Quái Truyện (Thượng, Hạ), Tạp Quái
Truyện. Tuy nhiên do kết cấu của Thập Dực không hợp lý nên Nguyễn
Hiến Lê cho rằng có thể do nhiều người can dự thêm bớt vào.
Mỗi quẻ gồm có 6 hào. Tên của mỗi hào gồm 2 từ, một từ để chỉ thứ
tự, một từ để chỉ là hào dương (gạch dài liên tục) gọi là cửu
hoặc hào âm (2 gạch ngắn đứt khoảng) gọi là lục. Từ chỉ thứ
tự từ dưới lên trên: sơ, nhị, tam, tứ, ngũ, thượng. Thí dụ:
hào dưới cùng là sơ cửu (cho hào dương), sơ lục (cho
hào âm); hào thứ 2 kế tiếp là nhị cửu (cho hào dương), nhị
lục (cho hào âm), kế tiếp tam cửu/tam lục, tứ cửu/tứ lục, ngũ
cửu/ngũ lục, thượng cửu/thượng lục.
(3)
Matsushita Kônosuke: Luận về Phát Triển Quốc Gia bằng Du Lịch-
Thay Vì Khai Thác Mỏ Than Đá, Xây Dựng Một Khách Sạn-, nguyệt san
Văn Nghệ Xuân Thu số tháng 5 năm 1954.
(4)
Kinh Dịch: một trong ngũ kinh, 5 sách cổ điển quan trọng của Nho
học: kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh
Dịch và kinh Xuân Thu.
Tài liệu tham khảo
(1)
Nguyễn Hiến Lê (1979 xuất bản lần đầu tiên): Kinh Dịch- Đạo Của
Người Quân Tử-, nhà xuất bản Văn Học, 1992.
(2)
Phan Bội Châu (?): Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải, Thư Viện PDF.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét