Phần 1: Lại khóc lại cười với Trâu
Thấm thoắt đã lại đến Tết con Trâu.
Lạ thật, sao con Trâu lại đi ngay sau con Chuột? Một anh “nhỏ bằng cái nhắt”, khôn lỏi, “chúa thằn lằn” về khoản mẹo vặt và lừa đảo, lúc luồn sâu lúc leo cao, lúc nào cũng thập thò, gây đủ điều tai hại, mà sinh sản cực nhanh, càng bí mật vụng trộm càng đẻ nhiều, nên bị xếp vào loại lưu manh chúa tể.
Tiếp theo ngay là một bác to đùng, ngu trung, to đầu mà dại. Cũng “có sừng có sỏ” rất oai, mà bị cái “thằng người homo sapiens” khôn ngoan nó “vặt”nó “dziệt” (1) , lúc sang phải, lúc sang trái, chỉ bằng một sợi dây thừng xỏ mũi. Rồi ta ngộ ra một điều: hai con giáp này xếp liền nhau là phải, bên cạnh anh ngu trung y như rằng xuất hiện lũ lưu manh, lợi dụng khai thác (mà các nhà chính trị vẫn gọi là bọn cơ hội). Hai thứ này cộng sinh, tương khắc nhưng lại tương sinh.
Ai chẳng thuộc mấy câu Ca dao về con Trâu:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cày cấy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công?
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Thật là một bài ca nhân ái. Người và vật đã biết dựa nhau mà sống, bởi hiểu rằng “trong lẽ phải, có người có ta”! Ông chủ mà thương đày tớ, mà xẻ chia quyền lợi với nhau như một kiểu “nhà nước phúc lợi” ở mấy nước văn minh! Bài ca dao đưa ra một giọng đàm phán, thuyết phục để có đồng thuận, chứ không đem nghĩa vụ ra mà áp đặt.
Nhưng sự đời đâu chỉ có thế.
Đây, một bài ca dao khác về con Trâu:
Ngày thường mày ở với tao
Đến khi mày yếu thì tao tuyệt tình
Thịt mày nấu cháo nuôi binh
Da mày bịt trống tụng kinh trong chùa
Sừng mày tao tiện con cờ
Cán dao, cán mác, lược thưa, lược dày…(2)
Một phác họa sao mà sâu cay! Khi sống đã cống hiến hết mình cho chủ. Yếu sức rồi bị giết đã đành, nhưng từng mảnh xác vẫn phải được mài giũa để trang sức cho chủ. “Nuôi binh, dao, mác…” là phục vụ chiến tranh, quốc phòng. “Chùa, tụng kinh…” là vẻ thánh thiện tôn giáo. “Trống chiêng” lễ hội, “lược thưa lược dày…” là phục vụ văn hóa và đời sống . Ôi, vắt kiệt nhau đến thế là cùng! Tôi cứ ngậm miệng mà cười: Sao kiếp Trâu lại có thể nhiều “vinh quang” đến thế? Vậy mà khi chụp ảnh Trâu nghệ thuật thì người ta cứ bỏ cái Ách ra, để cho Trâu “ toét miệng” ra cười, quên cả cái Ách như một “sắc phục” không thể thiếu của loài Trâu.
Nghĩ đến con Trâu, có lúc thì bùi ngùi, thì thương Trâu chậm uống nước đục, có khi thì ơn, thì phục, có khi lại giận, lại trách, lại ghét trâu điên, ghét thói trâu buộc ghét trâu ăn, lại tàn nhẫn bảo ngu thì đáng đời, gảy “đàn cầm” vào tai cũng phí …
Thế cho nên lại khóc, lại cười với Trâu mà làm mấy Câu đối Tết năm nay.
______
Ghi chú:
(1) Lệnh điều khiển trâu (vùng trung du Bắc bộ): vặt=vrắt=sang phải,
dziệt=sang trái.
(2) Từ cổ gọi là lược thưa và lược bí.
Có thể tham khảo thêm ở link của Hà Phương Hoài:
***
CÂU 1: Chuột đi Trâu tới:
* CHUỘT tạm rút, hang sâu còn dưới đất, chui bồ, rúc cót, coi chừng lũ CHUỘT rất khôn!
* TRÂU đang về, ách nặng vẫn trên vai, xỏ mũi, quất roi, yên phận kiếp TRÂU thì khổ!
CÂU 2: Bằng-Trắc năm Trâu:
* Cày bừa xong mổ thịt tế thần - thần phúc thần tài: đừng ban xuống cho quân… PHẢN TRẮC!
* Ve vuốt để lột da bưng trống - trống con trống cái: hãy vang lên một lẽ … CÔNG BẰNG!
CÂU 3: Vịnh con TRÂU như anh mọt sách:
* Đã khệ nệ BỤNG to chứa SÁCH!
* Sao ngu đần ÁCH nặng đeo VAI?
(Dạ dày trâu bò có 4 ngăn, ngăn thứ 3 có nhiều nếp gấp gọi là sách)
CÂU 4: TRÂU hỏi NGƯỜI:
* Lũ trâu đây yên phận cấy cày, thế sự dẫu vô tình,
nghe “Vặt-dziệt” cũng quen đường “phải-trái”! (1)
* Những kẻ nọ mang danh tổ quốc, biên cương đang hữu sự,
việc “mất-còn” không biết lẽ “tồn-vong”?
(Vặt dziệt đồng nghĩa với Phải trái, Mất còn đồng nghĩa với Tồn vong).
CÂU 5: Chọi nhau trong lễ phục:
* Mặc Lễ phục uy nghi,
Trâu Ngựa tranh ngôi,
ç trang trọng khiếp!
* Tung Thông tin thật giả,
Á Âu đoạt chức,
rối ren ghê!
Vĩ thanh, để xin lỗi loài Trâu
Viết xong bấy nhiêu lời về Trâu, tôi hơi mệt và ngủ thiếp đi. Nào ngờ hiện ra một con Trâu lớn, và sau lưng là một đàn Trâu, xa nữa là bóng một con hổ đang cắm cổ chạy vào rừng…Tôi nghe như có tiếng Trâu nhắc nhở: “Ông quên rồi ư, ông là nhà Sinh học mà không biết Trâu là gì ư, Trời sinh ra đôi sừng nhọn hoắt này để mà chơi à? Những con Trâu mà ông bàn luận là thứ Trâu đã bị loài người các ông thuần hóa nên đã biến tính. Được cho ăn và nhốt trong chuồng nên sinh lười nhác và đê hèn để các ông ve vãn và hành hạ. Đàn Trâu hoang dã chúng tôi vừa mới hiệp lực đuổi đánh què một con Chúa sơn lâm hung ác đó, cứu được một em Nghé dại dột tách đàn chơi rông…Hợp quần thì sống, chia rẽ thì chết đấy các ông ạ.”.
Thấm thía hình ảnh con Trâu đầu đàn, đầu đàn có sức để chỉ huy cứu đàn chứ không phải để bắt nạt các “đàn viên”. Tôi vùng dậy viết tiếp mấy lời cuối và diễn “lời của Trâu” thành Câu đối như sau:
CÂU 6: Quần Ngưu đả Hổ:
* Lẽ sống muôn đời: biết hợp lực, đàn Trâu thường thắng Hổ!
* Làm vua một cõi, chỉ đơn phương, mãnh Hổ cũng thua Trâu!
CÂU 7: Chữ BÁT- chữ CHI:
* Đường Dân tộc ngoắt ngoéo chữ CHI (之),
người dẫn lối chân đi chữ BÁT (八),
BÁT với CHI chắc chẳng… theo Tàu?
* Thuyết Thiên đường lăng nhăng thằng CUỘI,
kẻ tiên phong bụng giống thằng BỜM,
BỜM và CUỘI tưởng như… thuần Việt?
Việt hay Tàu? Hai vế đối như hai câu hỏi để cùng suy ngẫm, chỉ xin có lời góp thêm:
Việt Trung “hòa nhi bất đồng”!,
Đồng văn đồng chủng, chứ không đồng sàng!
CÂU 8: TẾT “vui như Tết”:
Các cụ ông đi hội Hoa Xuân, gặp các cụ bà, liền ra vế đối vui mà hiểm hóc:
* Tết đuổi Chuột đi, Chuột đã đi rồi, Tết chúc cụ bà vui… như Tết!
Vui như Tết là thành ngữ quá quen, dễ gì đối được?
Chẳng ngờ các cụ bà “hội ý” chớp nhoáng rồi một cụ tươi cười đáp lại:
* Xuân đưa Trâu tới, Trâu đang tới đó, Xuân mừng ông lão tuổi… hồi Xuân!
“Tuổi hồi xuân” cũng là thành ngữ đích đáng rồi, nhưng 80 tuổi mà còn mừng nhau“hồi xuân” thì Trâu cũng chịu thua! Nên các cụ ông hơi bị thẹn thùng, chỉ còn biết đồng thanh “Xin bái phục các cụ lão bà đấy ạ!”. Thế rồi các cụ vui vẻ cùng nhau trẩy hội Hoa Xuân mừng Tết Con Trâu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét