Chuyện Của
Người Không Mộ
Chuyện thật,
viết hôm ngày giỗ thứ ba của anh chỉ có nó
Anh chết, nó bàng hoàng đau nhói, biết anh bị đủ thứ bệnh, từ phổi tới
tim thêm tiểu đường, ra vô nhà thương không biết bao nhiêu lần, sau lần nằm nhà
thương vì đột quỵ hơn một tuần lễ, anh bỏ hút thuốc từ đó, giờ cũng gần sáu bảy
năm, nhưng không ngờ và cũng không nghĩ là anh ra đi sớm như vậy. Không là thân
thích họ hàng, người dưng quen rồi thân nhau, lớn hơn nó sắp sỉ hai con giáp
nhưng cứ như anh em ruột thịt, tội nghiệp anh tốt nghiệp sĩ quan từ thời Tây,
tiếng Tây không cần bàn nhưng khổ nổi, với số tuổi gần quá nửa đời người, tới xứ
người, anh không nói tiếng Anh được nhiều, ngoại trừ vài câu chào hỏi thông thường.
Anh ở một mình tại căn đầu dãy nhà của chinh phủ tiểu bang dành cho người
cao niên, dọc một con đường nhỏ, dẫn ra khu phố có tiệm quán người Việt, ngó ra
con sông đục màu quanh co trước mặt. Kế bên, Bill, ông già người Úc, sáng nào
nó đến, ông cũng chờ trước sân, sát cái hàng rào sắt thưa, cao chừng đầu gối,
chia phân có có vẻ vậy thôi, mừng ra mặt, ông nói một tràng, đại khái nói với
anh mày, cái này cái kia, dặn dò việc này việc nọ, vì ông cũng biết là anh
không hiểu ông nói gì, mà quả thật, anh đứng kế bên nó bên này cái rào, hai ông
ngó nhau cười gật gật đầu, nhưng anh phải chờ nó nói lại và trả lời giùm, anh
cười vui không thấy gì mắc cở cả, thấy mà thương, anh em là vậy đó.
Nó quen anh, một buổi trưa, trời xứ này trở mùa Hạ, khi theo một người
quen tới quán cơm người mình, ở ngã ba đầu đường xe điện, hai người này quen
nhau, và ngồi chung bàn, rồi nó cũng từ đó quen anh, anh hiền và ăn nói nhỏ nhẹ
lắm. Ngày mới qua đây, anh có theo vài người Việt đi làm công nhân ca đêm cho hảng
vỏ xe Dunlop hơn hai năm nhưng vì sức khỏe không khá nên nghỉ làm. Anh nghèo,
nhưng suốt những năm quen nhau, chưa hề nghe hay thấy anh có gì than thân, tiếc
nuối hay trách móc, nói vậy chứ nhưng khi cô đơn, không người, không biết anh
có chạnh lòng chút nào không, nhà ở không có gì ngoài cái ghế xa lông cũ, bạc
màu, rách vài chỗ, cái bàn viết gỗ cứng ai đó cho, vừa là bàn viết vừa là bàn ăn, cái tivi nhỏ, cái giường
ngủ, cái tủ đựng áo quần cũng chẳng khá hơn mấy thứ kia, hai ba cái ghế ngồi
mua từ chợ đồ cũ, có chén bát nồi niêu, mỗi thứ năm ba cái, đựng các thứ này
thì đã có kệ của nhà bếp có sẳn, thêm vài thứ lặt vặt, thế thôi, hết rồi, anh sống
bằng số tiền trợ cấp người già của chính phủ, không thấy anh có gì mới khác.
Anh không nói gì nhiều về gia đình, vợ con nhưng sau này, gần gũi hơn, sớt
chia nhau, bữa ăn trưa mì gói thay cơm tiệm, trái cam trái táo, gói trà gói cà
phê, miếng chao miếng đậu, mới biết vợ anh, chị ở với người con trai tại một tiểu
bang xa, cách nơi này cả hai ngàn cây số, không gặp nhau từ ngày anh qua đây và
cậu con trai cũng ít khi xuống thăm, trừ vài cú điện thoại hỏi han vài câu một
đôi lần ngày Tết, cậu này ngày trước thuộc loại “cậu ấm”, anh không nói tại
sao, nó cũng không màn hỏi.
Trước năm bảy lăm, cũng như đời lính của những người lính khác, anh đi từ
cấp nhỏ tới cấp cao hơn, cuối cùng tuy là sĩ quan trung cấp nhưng vì có khả
năng chuyên môn, anh đảm nhận một chức vụ khá lớn lo về tài chánh của quân đội
và anh không phủ nhận là đã có tiền, giàu hơn những người bạn sĩ quan khác, do ở
hai chữ tài chánh, anh khẳng định, anh chưa hề và chưa bao giờ ăn hối lộ, luât
lệ cuộc chơi thương trường bất thành văn là như vậy, như vậy là ngày đó anh rất
giàu. Dưới quyền làm việc của anh, lúc bấy giờ, toàn là những anh chị có cấp bằng
cử nhân hay những anh đàn anh cùng trường với nó, cho nên anh rất mến, rất trọng
vì lẽ đó, khi gặp nó, anh cũng mến nó như vậy.
Tuy vậy, nhưng anh có nhiều bạn, từ những người cựu sĩ quan, cấp cao hơn
nhiều bậc đủ binh chủng, bác sĩ, nha sĩ, giáo sư giáo viên, hiệu trưởng trường
trung học, công chức chức chính phủ cao cấp cũ thời trước, trong nhóm nó là thằng
nhỏ tuổi nhất, nhưng đời anh vẫn có chỉ riêng mình nó với anh hiểu.
*
Bệnh viện gọi điện thoại cho nó biết tin, sáng thứ hai, một buổi sáng trời
đầu Thu, không khóc nhưng nước mắt ứa ra tràn xuống mặt, bỏ điện thoại xuống,
khoát áo lạnh, đóng cửa rồi chạy vụt ra xe, trên đường nó bật khóc. Ra vô bệnh
viện như đi chợ, nhất là từ ngày giải phẩu tim, trên hồ sơ bệnh nhân, nó là người
có tên kèm theo, thông dịch cũng như nhận lo mọi việc nếu lỡ may có gì xãy ra.
Anh nằm đơn lẻ, lạnh lùng trong nhà xác bệnh viện, nó ngồi rấm rức mắt cay xé
nhìn bên giường, ánh đèn đủ sáng trắng một màu như tang trắng.
Đám tang đưa anh ra nhà hỏa thiêu, những người đã đến nhà, nhiều lần, một
hai lần, đều theo đưa. Không thầy không cha, không điếu văn, không kèn trống,
chiếc hòm giá rẽ, vài vòng hoa tang, căn phòng vắng lặng, lần lượt, từng người
họ đi qua, đặt một cánh hoa Huệ trắng, nói gì đó, không ai nghe rồi thôi, trở lại
đứng dọc theo cuối hàng ghế, để khách ngồi, không ai ngồi, người nhân viên hỏa
thiêu lặng lẻ sửa lại cái hộp giấy cứng, trên đầu quan tài, nó xin được đốt
theo, trong đó có đôi giày da đen nó hứa mua cho anh ngày Giáng Sinh, tấm hình
chụp anh với nó hôm chợ Tết năm ngoái và xấp hồ sơ, xin bảo lảnh người quen bên
Việt Nam qua, để lo việc săn sóc anh, theo luật lệ di trú cho phép mà nó đã dịch
và viết tờ giải thích xong, để anh ký tên, anh chưa kịp ký, người nhân viên đẩy
quan tài tới trước cửa phòng thiêu, cúi xuống thì thầm đọc gì đó, chắc là câu
kinh tiễn người như anh đã làm, quay lại nhìn đám người, nó đứng đó, cánh cửa mở
rồi đóng lại, anh nhìn ra căn phòng, nói
vừa đủ nghe “cám ơn”.
Ở một phía xa ngoài nghĩa trang, trời giữa trưa đứng bóng, mây che khuất
lưng chừng, một nửa nắng, xám xịch, ở một phía không mấy xa, cuối hàng mộ, ba bốn
người lom khom, không ngồi không đứng, gió từ hướng xa lộ lùa về, có tiếng
khóc.
Thuyên Huy
Cuối Đông
2020
❤❤❤❤❤❤
Mời Xem :Đoản Văn Không Đề Số Ba
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét