1.
Dòng họ Trần Liêu vào định cư ở bờ Bắc sông Thu một
thời gian lại gặp chuyện chẳng lành. Mấy năm liền, mùa hè như trong lò
thiêu, mùa đông như băng giá, khí hậu khắc nghiệt, khắp nơi bị lụt lội,
hạn hán, mưa đá, bão tố; lúa đang đòng đòng sâu bọ ăn hết, kiến vàng làm
tổ trong măng tre măng trúc; giếng nước có rắn, dọc bờ sông cá sấu phơi
mình trên cát; giữa trưa khô khốc từng bầy voi lang thang đi tìm nước
dọc bờ sông trắng. Gió rao truyền những tai ương, và biển bủa sóng báo
hiệu của hoang phá điêu tàn.
Về mặt nhân văn, con người không tin vào những
điều thực tế; nhưng những cảm ứng tâm linh không còn chân chính; nó bị
tác động, xua đi theo dấu chân tà thuật. Đó đây mọc lên lời kinh cầu,
sấm truyền. Những phù thủy dạy cho con người những điều u muội, xuyên
tạc, đẩy đạo lý đến cửa ngõ của dị đoan mê tín. Người ta thờ những con
rắn hai đầu, gà bốn chân, cua mặt người, cọp biết nói. Tin đồn loan
truyền, những đồng dao, những mẩu chuyện châm biếm cứ mọc cánh bay đi,
tụ hội với trăm nghìn hoang tưởng, làm cho xã hội hôn ám càng nhuốm màu
hoang đường. Bọn đồng bóng có nơi ăn chốn ở, quân ma mãnh giàu sang, kẻ
trí thức thất sủng sống âm thầm thui chột. Óc tim tẩm độc.
Trần Liêu vay nợ Phú Hào nhiều năm vốn lãi chất chồng
không sao trả được, Phú Hào đòi cào nhà và cùm gông Trần Liêu giải lên
quan huyện. Trần Liêu đành đem cô gái Út xinh đẹp – cô Giao Châu – mười
bảy tuổi gả làm hầu cho Phú Hào trừ nợ. Kỳ hẹn mười năm Hào trả Giao
Châu lại cho Liêu. Nào ngờ, sau đó Phú Hào đem Giao Châu nộp cho quan
Huyện, gọi là món lễ vật quý giá. Quan Huyện mê mẩn Giao Châu đến quên
cả vợ, nên người vợ tìm cách giết Giao Châu bằng thuốc độc.
Mãi mấy năm sau Liêu mới biết chuyện buồn, tới huyện
đường kêu oan. Huyện phán, “Ngươi đem con gái nạp cho Phú Hào trừ nợ.
Vậy, con gái ngươi là món hàng, ai dùng chẳng được. Hàng đã dùng thì có
hư hao, sao đòi?”. Liêu kêu oan mãi, lại khóc nức nở vì thương con gái.
Quan tức giận sai quân lính nọc Trần Liêu ra giữa sân nắng mà đánh ba
mươi hèo, rồi đuổi về. Quan Huyện bày trò nhân từ cho Liêu tiền, Liêu
không nhận.
Mang một cái đầu căm uất và một cái lưng máu về nhà,
Liêu nói cùng vợ con: “Bỏ xứ mà đi thôi”. Vợ Liêu can ngăn, “Mình là
dân, phải biết nhịn nhục mà sống, sao bỏ làng nước ra đi. Đi đâu, về
đâu?”. Cậu con trai cả của Trần Liêu nói, “Quan hà khắc thì giết lũ quan
ấy đi!”. Cậu Út nói theo cách huyễn mộng của mình, “Ta sống không cần
vua quan có được không?”.
Rõ ràng bốn người bốn quan điểm khác nhau. Liêu muốn
từ bỏ một nơi chốn khắc nghiệt để tìm đến một miền đất lành, như vượt
sông Thu vào phía Nam chẳng hạn. Người vợ tòng quyền, nhưng không muốn
rời bỏ nơi có mồ mả cha anh; nghĩ về những lao lung của dĩ vãng, bà rất
sợ những cuộc ra đi tìm đất Hứa. Cậu con trai cả rõ là muốn nổi loạn, dù
đẫm máu, nhưng nó làm sạch triều đình. Cậu Út có khuynh hướng vô chính
phủ: “Ta sống với ta, vua quan là cỏ rác”.
Đi? Ở? Giết quan? Hoặc không cần vua quan? Song,
trong gia đình ấy có một sợi dây vô hình và bí ẩn, bàn luận thì rộng
rãi, cuối cùng vẫn theo lời cha. Họ sẽ ra đi. Nơi họ định đến vẫn trên
xứ sở thân yêu của họ, nhưng là bên kia bờ sông Thu.
Phải là Bên-kia-Bờ. Bên kia bờ con sông mà định mệnh đã trót cho nó cái tên sông Thu.
Bây giờ đang là mùa đông. Thời tiết năm ấy giá lạnh
kinh hoàng, bão khô thổi xao xác làm rừng núi khô vàng như chờ nhóm lửa.
Sông Thu có dòng chảy rất xiết, xoáy bờ Nam, phá bãi Bắc, tạo ra những
bãi phù sa cồn cồn lớp lớp, hoặc những vịnh nước mênh mông. Ngày ngày
mặt trời như một cục máu đỏ hỏn trồi lên một chút là bị mây đen vây phủ.
Bầu trời mang mang xám rộng, khi con sông Thu tràn tỏa, sóng reo như
biển.
Ngày ấy, bờ Nam sông Thu hãy còn ít di dân tới định
cư. Bờ Bắc còn lưa thưa xóm làng. Chen lẫn giữa những xóm làng hiu quạnh
là rừng thưa hoặc núi đồi, đầm lầy. Từ làng tới huyện phải mất mấy ngày
đường. Quan đi lại có ngựa, kiệu, dân cuốc bộ. Quan có lính hầu bảo vệ,
dân phải mang giáo mác phòng khi đâm chém với voi rắn, heo rừng. Nông
phu đi làm rẫy chạm mặt với thú dữ là thường. Cọp thấy người trước tức
thì phóng về người xé xác mà nhai. Người thấy cọp trước thì đập giết cọp
mạng về, thịt ăn, da cọp làm áo hoặc làm phên vách quanh nhà. Đôi khi
cuộc chiến đấu ngang bằng, cọp người gầm gừ rời nhau, cọp mang máu me
chạy vào núi, người mang thương tích về nhà vợ con băng bó. Cọp gặm
người vì bản năng, người giết cọp vì ý thức sinh tồn.
Trần Liêu có vóc dáng to khỏe như gấu. Cậu Cả giống
bố, ngày ăn bốn bữa, mỗi bữa nồi cơm bự, luôn có ý tìm giết Phú Hào cùng
quan Huyện. Trong Cả có dòng máu muốn đứng lên giữa trời, cây đao phơ
mà quạt “cỏ dại”. Cậu Út, người mảnh mai, da trắng trẻo, mắt sâu mũi
thẳng, cách đi đứng nói năng thanh tú, sính chữ nghĩa thơ văn, có tính
khinh đời nhưng lại sợ chuyện đâm cọp giết người. Với cậu, thế gian này
chỉ là cõi tạm; trong cuộc hành trình miên viễn của cậu, nơi đây chỉ là
cuộc ghé chơi, ngẫm nghĩ xa xôi làm chi cho u hàn thể phách.
Thuở bé, có lần Út đi chơi sao đó mà lang thang vào
một hang cọp. Liêu và Cả vác giáo đi tìm. Lúc tới nơi, người ta thấy cậu
Út đang ngồi thu mình bên chú cọp con láng mướt màu nhau. Liêu ẵm Út ra
khỏi hang cọp. Cả lăm le ngọn giáo. Liêu can ngăn, “Đừng giết cọp
con!”. Khi xuống núi, ba cha con gặp cọp mẹ trở về. Lần nữa Liêu nói với
Cả, “Hãy tự vệ, đứng giết nó. Nó còn con nhỏ trong hang”.
2.
Cha con Liêu xẻ gỗ đóng thuyền. Lại rèn thêm vũ khí.
Việc qua sông chỉ cần một chiếc ghe nhỏ là vừa nhưng
họ đóng một chiếc thuyền khá lớn, như để vượt biển. Liêu giải thích
rằng phải chở cả bàn ghế tủ giường, cối xay, chày giã gạo. “Ra đi, chỉ
đi một lần không lui lại, có chi thì chở hết”. Vả lại, qua bên kia sông
đã chắc gì tìm được cái sống lúc ban đầu dễ dàng.
Bà mẹ chuẩn bị lương thực, áo quần. Bà hái lá rừng
phơi khô, những loại có thể là những món thuốc nam, phòng khi chưa hợp
thủy thổ. Hôm dọn bàn thờ, người mẹ thấy cái hộp đựng cuốn gia phả đã bị
mối mọt ăn, tượng Phật cũng vậy. Để yên thì thần là tượng, mà tháo ra
ráp lại không được. Chúng rã tan. Như lớp bụi vô nghĩa. Như một cái gì
rất đáng sợ, giữa niềm tin sâu mọt.
Bà mẹ đem chuyện này nói với chồng. Liêu nói nghiêm
chỉnh, tuy có một thoáng bàng hoàng, nói, “Cái gì hư mọt thì vất đi,
không cần sơn phết làm gì nữa, cha mẹ, Phật, Tổ ở lòng ta”.
Mùa đông rồi cũng trôi qua. Nhưng mùa xuân năm ấy kỳ
lạ. Gia đình Liêu ăn cái tết từ biệt để chuẩn bị ra đi thì mưa lê thê
kéo dài, gió Bắc khô lạnh. Khắp nơi, mai không nở. Cây rừng trụi lủi.
Núi đồi hắt hiu bát ngát. Bầu trời luôn màu chì. Giữa tháng giêng sâu bọ
bò rào rạt, hàng nghìn triệu con, san bằng đồng lúa. Cào cào châu chấu,
kiến cao cẳng đầy nhà đầy vườn. Những luống cải hoa vàng trở thành màu
nâu đen vì ruồi nhặng bu quanh. Bướm ong màu sắc tươi xinh chết đầy đất.
Chuột chù chuột cống bò khơi khơi trong vườn ngày. Trong trái chín sâu
dòi ngổn ngang. Nước đồng ruộng có màu đỏ loãng. Trên mặt nước có đóng
váng ngũ sắc, phản chiếu ánh mặt trời chiều trông hoang đường đến nhức
mắt. Ánh chiều mong manh như tơ lụa bỗng trở nên gớm ghiếc.
“Một mùa xuân ma”.
Một hôm, quan Huyện đi thăm dân tình, gọi là chúc
xuân, nhân tiện ghé Phú Hào đánh chén cùng hãm hiếp kín đáo gái quê. Cậu
Cả nghe tin ấy, mang giáo ra đi, định giết chúng. Liêu can ngăn con,
“Chưa có tòa xử chưa nên giết người!”. Cả cãi lại, “ Bọn chúng không còn
là người. Mà ai ngồi tòa? Ai xét xử?”. Người mẹ vừa khóc vừa sợ hãi van
xin, “Dù sao con gái mẹ cũng đã chết rồi, gây ra oan trái làm chi nữa”.
Cả giận dữ, “Trừ kẻ có tội, trả thù cho Giao Châu mà là gây oan trái
à?”. Cậu Út nói, “Thôi, xin mọi người hãy dẹp cất dĩ vãng đi”.
Hôm đó Cả bỏ ăn, nói với cha, “Suốt đời cha chỉ dạy con điều nhịn nhục, chịu đựng. Cha làm tê liệt ý chí con người”.
Thời gian dần qua, mọi việc chuẩn bị xong, ngày ra đi
sắp tới. Liêu mang màu vẽ mắt con thuyền. Cả rửa thuyền. Dưới sức nắng
mùa hè, con thuyền bạc thếch vì nước lũ có bùn non phủ qua những ngày
mùa đông. Trong lòng thuyền một lớp bùn nhão, ở đó một con rắn nằm
khoanh tròn. Cả chặt một phát. Con rắn cụt một phần đuôi, vùng thoát,
trườn mình hướng về phía đầm lầy. Cả nói vui, “Ngày xưa Lưu Bang chém
rắn, ra đi rồi làm vua”. Trần Liêu nhìn con gằn giọng, “Chỉ toàn chuyện
vấy máu”. Cả nói, “Nhưng máu của chính đạo thì cũng cần thiết phải đổ ra
lắm chứ”. Cha con cùng cười.
Nắng mùa hè chói chang. Dãy núi hùng vĩ phía tây như
nghìn ngọn sóng bát ngát trong trời xanh. Mây trắng chập chùng, trôi dạt
cả trong lòng con sông Thu xa xa.
Con thuyền được kê lên cao bởi hai cái đà gỗ. Trần
Liêu lập bàn hương án, ăn vận chỉnh tề rồi cầm cọ chấm màu vẽ mắt cho
thuyền. Cả nhìn cha vẽ, lại hỏi, “Người có mắt đây mà nhìn không thấy
hết phương hướng, lạc mãi chốn vô minh, cha vẽ mắt lên gỗ đá mà chi?”.
Liêu giải thích, “Mắt người ta là mắt thịt. Mắt gỗ đá mới hiển linh con
trai ạ”. Liêu không là họa sĩ nhưng điểm nhãn cho thuyền rất đẹp. Sau
đó, họ lắp bánh lái, lợp mui.
Bà mẹ rất lưu luyến chốn cũ nhưng cuối cùng cũng đành
phải xuống thuyền cùng chồng con. Hôm ấy người mẹ buồn lắm. Bà khấn vái
tổ tiên. Đôi mắt ướt, nhìn hun hút về nương rẫy rừng núi. Liêu đứng ở
bờ sông quay mặt về hướng Bắc lạy ba lạy, lại day về hướng Nam bái ba
bái. Thấy lạ, Cả hỏi, “Sao cha lạy phương Bắc mà chỉ bái phương Nam?”.
Liêu giải thích, “Phương Bắc là tổ tiên linh hồn giống nòi ta”. Út nói,
“Theo con thì cha phải lạy phương Nam. Phải lạy cái tương lai. Còn quá
khứ thì xá xá nó là vừa!”. Liêu cúi mặt, thở dài, nhịn con.
Từ lâu Cả thắc mắc một điều nên gạn hỏi cha: “Này
cha! Nghe rằng chúng ta là hậu duệ của vua Trần?”. Liêu nói nghiêm
chỉnh, “Đúng vậy, chúng ta là con cháu chính thống vua nhà Trần, vì suy
mạt mà ra đi”. Cả lại hỏi, “Cùng một dòng họ nhà Trần sao một thời đầy
dẫy anh hùng, những Hưng Đạo, Quang Khải, bây giờ lại toàn một lũ gian
manh trộm cắp, hoặc đói khổ đoạ đày như chúng ta?”. Liêu than thở, “Đó
là vận nước. Cũng một dân tộc, một thời có thể rặt anh hùng, một thời
rặt bọn khùng lũ điên. Thời hưng thịnh thì một người cày ruộng cũng giữ
luân lý riêng mình và đạo đức giống nòi. Thời suy vi thì cũng dân quan
đó nhưng là lũ ti tiện, coi trọng vật chất, xem thường đạo lý, vì cái
sống thấp hèn, vì địa vị, có khi ám hại nhau không nương tay. Trong nhân
loại, nước nào cũng có trường hợp đó, vận hạn mà. Nhưng chớ có buồn mần
chi. Ở chỗ cùng kiệt, anh hùng lại sẽ xuất hiện, minh quân ra đời. Cuộc
nhân sinh sẽ được vun quén trùng tu”.
3.
Thuyền hạ thủy vào một ngày rực nắng. Bầu trời xanh
ngát không một áng mây. Liêu và cậu Cả ăn vận gọn gàng, giáo mác bên
hông, đai lưng bằng da thú, nón mây. Trông Út như một đạo sĩ trong lớp
áo trắng phơ phất. Người mẹ nhìn bờ Nam xa tắp, dấu hiệu đất Hứa hãy còn
mịt mờ nơi cái tường thành lau trắng xa xa, chưa một bãi dâu, chưa một
làn khói bếp nhà.
Bơi theo thuyền của họ là một đàn cá sấu vùng vẫy. Cả
định phạt một giáo. Liêu can ngăn, “Ta có đường đi của ta, đừng chọc
vào lũ sấu xà”. Người mẹ tụng kinh. Tiếng lòng chan hòa sông nước, giữa
cái nóng của mặt trời cùng sự reo thèm của lũ cá sấu dưới lườn ghe.
Họ cho thuyền ngang qua bờ. Sông mênh mông không cầu. Cầu quan lộ xa xa dưới kia năm ba ngày chưa thấy một bóng ngựa trạm.
Trước đây gia đình Liêu từng nghe người bơi thuyền
qua sông, đi Nam về, kể lại những gì đã từng mắt thấy tai nghe. Câu
chuyện khá hấp dẫn đối với Cả và Út khi được biết cách đó không xa có
một con đường rẽ về hướng Tây, dẫn sâu vào núi. Một con sông chảy bạt
ngàn trên đỉnh núi liền núi. Như một con sông huyền thoại, nhìn nó người
ta tưởng nó chảy ngược, vì mắt ta quen nhìn sông xuôi về biển. Đó là
hướng Tây của Quảng Nam – mở rộng về phương Nam – mà dòng họ Trần Liêu,
con cháu vua tới lập nghiệp. Núi trùng điệp sừng sững. Những thung lũng
trầm mặc, bí ẩn. Nơi miền xuôi, những tháp Chàm hiện lên như những cánh
xương rồng khổng lồ. Đất đai hãy còn là những thảo nguyên hoang dã.
Có một câu truyện kể lại rằng, ở đó, bên Bờ Nam con
sông Thu của Quảng Nam, cách con đường cái quan chừng mươi cây số về
hướng núi, có một kinh đô bị chôn vùi trong lòng đất. Nó đã trở thành
một ngọn núi.
Một dân tộc, trước thời gian dần dà bị bại vong,
không nỡ tàn phá, hủy diệt “trái tim chung của giống nòi mình”, đã an
táng kinh đô của mình trước khi cùng Bỏ-nước-ra-đi, bằng cách đắp đất
lên đó. Người ta nghĩ rằng lòng đất là nấm mồ sẽ giữ cho kinh đô vĩnh
cửu. Núi đó là Nhân Sơn – mộ địa sầu bi, đầy huyền bí. Ngày nay, cái
chất thơ hùng đó không chỉ bàng bạc trong sử lịch mà nó hiện hồn bâng
khuâng trong từng từng cỏ lau trắng như khăn tang lưng chừng núi. Lúc
bình minh, núi chìm trong sương mù biển khói, và hoàng hôn núi lặng im
một cách lạ thường, khi cả trời rực lên cái ráng chiều máu pha. Sau đó,
Nhân Sơn chìm trong đêm im lìm, tìm cách đầu thai trong bóng tối.
***
Theo dòng, thuyền đang trôi an bình thì gia đình Trần
Liêu bỗng thấy dòng nước chảy xiết. Củi khô, bèo giạt ở đâu trôi về
đầy. Mặt sông đen ra, mịt mù. Liêu đổi tay chèo cho Cả cầm bánh lái. Mọi
người đang vui vẻ bỗng lo lắng. Con sông cứ như có thần linh làm cho nó
càng xa thẳm hai bờ. Càng chèo chống, vươn tới, hướng về, mong qua, thì
bờ Nam cứ dần dần xa tít. Bãi bờ phương Bắc hun hút với đầm lầy rừng
thưa. Bầu trời nắng gắt giờ đây mây phủ, gió rao rao huyền hoặc không
còn nữa. Một cơn bão đã tới, gặt, giật, rung chuyển nghìn vạn âm thanh
cuồng nộ. Gió khoét nước từ mặt sông tung cao lên không trung. Mưa không
thể nào kể hết mưa. Từng tảng nước dội phủ lên thuyền. Người ta cảm
tưởng bị rách thịt da, mặt, vì từng cây nước trắng như bạch kim châm
vào.
Cả vuốt mặt và nói, “Chúng ta bắt đầu chơi với quỷ
thần rồi đây. Bọn âm binh bắt đầu ló mặt. Ta trốn xa lũ quỷ mặt người
hóa ra giờ đây…”. Út phất tay áo nói, “Đúng là định mệnh chúng ta đang
có ma vương thọc tay vào”, Liêu răn dạy, “Hãy bình tĩnh các con. Lúc này
mới là lúc thử sức người”.
Trong cuộc chinh phục thiên nhiên, con người vừa muốn
tiêu diệt nó, vừa muốn hòa bình, nhân hóa nó. Con người cần lưu giữ
thiên nhiên một phần nơi sọ não. Cuộc chơi đó lắm khi gay cấn, không
thiếu phần mỉa mai tàn nhẫn, là một bên vẫn cứ muốn tiêu diệt một bên.
Nhân loại có nảy sinh nhưng lần lượt đi vào mộ; thịt da mãi bốc làn khói
đen trong trời xanh.
Con người tiêu diệt con vi trùng nhưng định mệnh cỏ
cây cứ nảy sinh ra nghìn nghìn vi trùng mới, lạ lẫm và khôn ngoan hơn.
Những cánh rừng vẫn cứ bị chặt phá, ao hồ khô kiệt, không gian thấm độc,
vậy mà con người cứ đào biển phá núi, lăm le đào xới những vì sao, tính
tuổi mặt trời. Cho nên, trong qui luật đó, gia đình Trần Liêu đang được
treo trên sợi dây bão tố, để thiên nhiên dày vò. Người ta có thể không
tin vào thiên đường hay địa ngục nhưng quả thật những mặc khải tâm linh
đó không trừu tượng – ít ra về mặt biểu trưng, nghĩa là chúng ta đang ở
trong nhau, bão tố thường trực đầu thai trong khí hậu an lành.
Đối với gia đình Trần Liêu, con sông Thu giờ đây là
một cõi lưỡng nghi hỗn độn. Bờ Bắc thì mờ mịt, bờ Nam tít xa ngàn dặm.
Dứt bỏ dĩ vãng mà không có tương lai. Rời một đám khói mịt mù để mơ tới
một bờ sương vô vọng. Trần Liêu đã dâng hiến một niềm tin sắt son cho
bão tố. Cuộc trùng phùng chừng như giấu mặt, bôi vôi. “Trần Liêu? Ngươi có đau lòng chăng khi từ bỏ một quá khứ dị dạng buồn nôn, để hòa mình cùng một thực tại rách nát bão giông?”.
Cả và Út không chèo thuyền nữa, mà gác mái chèo trong
lòng khoang. Trời đất vẫn lòi cái mặt nạ xám xịt trong cơn thịnh nộ.
Con thuyền răng rắc muốn bứt làm đôi. Mũi thuyền trước như con thú chồm
lên vồ mồi, mũi sau như con kình ngư chực lặn sâu xuống đáy nước. Nó đâm
ngang, rẽ dọc, lại quay tròn, khi lao vào Nam khi trở ngược phương Bắc.
Thuyền tự do theo hướng vô phương Phật của nó, sẵn sàng nghiêng hất cha
con Liêu giữa dòng. Rồi, rắc một cái, bánh lái gãy. Liêu mất thăng bằng
bổ nhào vào lòng thuyền. Người mẹ cúi mặt vuốt nước, thầm niệm kinh. “Một lời kinh nguyện nhỏ nhoi mà dám van xin đất trời an bình?”. Nhưng
người mẹ cứ niệm, vì mẹ hiểu rằng, trời xa đất biệt có chỗ tế vi, phải
có Cái-lỗ-tai để nghe những lời van xin dù hèn mọn nhỏ nhoi nhất trên
thế gian.
Lạ thay, rất lâu, qua nhiều thử thách, thuyền không
chìm mà cứ trôi mãi. Lại có vẻ càng lúc càng bình an khi sóng gió đã
lặng. Đêm lên. Mảnh trăng lưỡi liềm vắt vẻo xa xôi. Bầu trời trở nên sâu
lắng huyền ảo. Lúc đầu mọi người còn tỉnh táo, sau, họ không định được
mình đang ở đâu. Thậm chí họ không còn cảm giác ở trên sông hay biển khi
mọi người bắt đầu mê dần. Không gian như có mùi hương tinh khiết. Một
bàn tay huyền bí nào đó giữ cho chiếc thuyền không còn bánh lái cứ trôi
mãi đi. Mấy ngày đêm liền, thuyền không qua được sông, không tới được bờ
kia, mà trôi ra biển. Cuối cùng rất may mắn thuyền dạt vào một hoang
đảo.
4.
Cậu Cả là người tỉnh dậy đầu tiên sau một thời gian
dài mê xỉu. Anh nằm dài trên cát ngơ ngác nhìn chung quanh và nhận ra
cái nắng rát mặt của buổi trưa nơi hoang đảo. Mùi biển tanh nồng hòa
trong gió. Sóng vỗ tràn lan qua bãi trắng phẳng lì. Xa hơn, những mỏm đá
cheo leo chồm ra vịnh biển. Rừng rất xa xanh kéo lên tận đỉnh đảo. Một
vài cánh chim chao liệng trong trời.
Cả cố đừng lên, lại mệt mỏi ngồi xuống. Chiếc thuyền
còn nguyên vẹn, nằm trên cát, cách nơi nằm của cha anh và cậu Út không
xa. Mẹ anh trong khoang. Đầu tiên với cây giáo, Cả đào một cái giếng nhỏ
trên cát, dùng tay vốc nước uống, lại bốc một nắm gạo sống mà nhai. Sau
đó anh tới lay thức mọi người.
Họ đi dần vào chân đảo, tìm một cái hang trú ngụ qua đêm.
Về đêm, khí hậu đảo rất lạnh, sóng đánh rì rầm, tiếng
chim và tiếng rú gầm của thú rừng quanh quất. Mấy hôm sau, Liêu và Cả
vác giáo đi thám thính quanh vùng và trở về cho người mẹ biết quanh đây
không có làng xóm nương rẫy, nghĩa là không có dấu hiệu rằng con người
đã từng sống hoặc từng qua đây. Người mẹ hiểu rằng gia đình đang rơi vảo
một tình thế hiểm nguy. Lương thực đã hết, vì trước kia bà chưa hề nghĩ
tới ngày lạc vào hoang đảo.
Ngày qua ngày, người mẹ chôn giấu sự lo sợ tận đáy
lòng. Bên ngoài bà cố vui vẻ, làm những việc giúp chồng con như khâu vá
áo quần, quơ nắm củi, hái rau rừng, lấy nước từ giếng xa, sát vực biển,
bằng cách khoét một vài lớp cát. Bà tìm một chỗ bằng phẳng sạch sẽ,
trong hang đá – để thiết cái bàn thờ tổ tiên. Mẹ vái lạy hằng đêm, khấn
nguyện người khuất mặt – tiên linh giống nòi, ông cha, chú bác, anh em
thương; cả những oan hồn cô quạnh, những kiếp chết linh hồn nát mẩm
thành cô hồn của quỷ ma – để mong chờ phút giây cứu rỗi.
***
Một hôm Cả đâm được một con thú, xẻ thịt ăn. Con
người ăn thịt mãi cũng khó thành người. Những đám rau rừng dần dà cũng
mòn tịt đi, vì bốn miệng ăn. Ở chốn sỏi cát, cũng có thể trồng lương
thực rau quả, ngặt vì không có hạt giống. Rất may, nơi đây vẫn còn ít
loại rau và hoa quả nuôi người. Nhưng người đâu là khỉ, núi rừng cho chi
ăn nấy. Nên, thời gian lấy dần thịt da máu tủy người.
Một buổi chiều xám, ba cha con Liêu vắng nhà, người
mẹ ngồi thu mình trong hang đá bỗng nghe tiếng động ngoài cửa hang. Mẹ
rùng mình hiểu rằng loài thú rừng cũng đang tìm một cái hang ấm áp.
Chúng đang ngắm nghía cái hang của mẹ. Đêm nằm mẹ mơ thấy những điều
không vui. Trong thế giới hoang đường của giấc ngủ mẹ nghe cả tiếng cười
vui, nhưng rất đau lòng, của chồng con. Họ đang chống lại một định mệnh
cay đắng. Những con người khỏe mạnh dũng cảm ấy đang bị biến thể, trở
nên những bộ xương.
Nhiều hôm trời thanh nắng tốt, mẹ đứng trên mỏm đá
cao nhìn mông lung, cố tìm dấu hiệu của đất liền. Mẹ theo dõi cánh chim,
mong thấy vệt xám xanh ở chân trời, hay một cánh buồm nào đó qua đây.
Mẹ tuyệt vọng cùng tháng ngày, vì trong cái mông lung xanh ngắt kia
không một dấu hiệu bến bờ.
Mùa đông lạnh giá lại về. Những mảnh áo tấm quần rách
nát. Trần Liêu là một bộ xương có mái đầu bạc, một cái đầu lâu có tóc,
có cái nhìn, có tiếng cười, và sự bất trắc vẫn còn đeo đuổi.
Đêm đêm, người ta đốt đống lửa hồng. Là, để cho ấm,
để trò chuyện với nhau như ma trong mồ nhớ dĩ vãng trần gian. Lửa ấy ít
đun nấu một thứ gì có chất gạo. Da người thiếu chất bột đã trở thành màu
da bụng của rắn mối, pha một chút xanh lơ bệnh hoạn của thiếu máu, của
mong chờ đất liền, của một ngày về đang chìm trong sương biển.
Mọi người trong gia đình Liêu rất thương yêu đùm bọc
bảo vệ nhau. Nhưng chính sự khắng khít can đảm đó, trong cảnh khốn cùng
đặc biệt, cũng là một hoàn cảnh mỉa mai. Họ đang dần dà biến thành vượn
để hoàn chỉnh cái sống của kiếp người.
Một hôm bà mẹ nói – đúng hơn là một bộ xương nói:
- Nếu tôi chết, rất mong mình và các con hãy ăn thịt tôi để sống qua ngày.
Liêu cắn môi, rít qua kẽ răng:
- Đừng nói điều vô đạo.
Bà mẹ nghiêm chỉnh, nói lời nguyện cầu, như một sấm truyền đầy cảm ứng thần linh, như máu trong mẹ nói:
- Sao lại vô đạo? Tôi là vũ trụ tạo ra chúng. Lúc
nằm trong bụng tôi, chúng chẳng từng hít máu tôi, thở trong tôi, ăn hút
tủy xương tôi đó sao? Khi là bào thai lại hoang vu ăn thịt người, lúc
thành người lại mang đạo đức ra trá hình đối với những dâng hiến cuối
cùng.
Người Mẹ, sau đó, kể cho hai con nghe một câu chuyện
đầy ẩn dụ rằng ngày trước có một đám tù vượt ngục từ một trại tù nơi một
hòn đảo lớn – địa ngục trần gian. Họ lênh đênh trên biển – với một
chiếc bè ráp tạm – rồi trôi dạt vào một hoang đảo. Đói lạnh bệnh tật,
nhưng là những người tù chính trị chân chính, họ không hề tuyệt vọng,
rất can đảm và minh sáng trong hoàn cảnh hiểm nghèo. Thế là một trong
đám người họ quyết định tự tử. Để làm gì? Để những người anh hùng kia
lấy thịt mình mà ăn. Con người kiên cường kia biết rằng những người
cùng chí hướng với mình sẽ giải quyết cái thân xác tạm thời của mình để
tiếp tục làm cái việc muôn đời cho muôn người.
Nghe xong, Cả và Út lặng lẽ kinh hoàng. Họ cúi mặt
khóc. Ngọn lửa hồng vẫn tiếp tục cháy giữa dòng đại hồng thủy. Sự nghịch
lý tàn khốc kia hóa ra vẫn là một xúc tác trong sinh tồn. Tập tục
thường hằng lắm khi phải lùi bước trước những điều cao cả: sự tan vỡ
cùng cực của đại biến để mở màn cho một Phục sinh.
Từ trong hang động mẹ nhìn ra biển lớn. Bầu trời
thanh thản một cách lạ thường. Bầy chim biển sà trên mặt nước xanh. Sóng
bạc đầu xua vào bờ hằng nghìn cánh bạc, lấp lánh nắng. Một lúc mẹ nói,
giọng rất ấm:
- Các con nghe mẹ bảo. Nơi đây không thiếu thịt
thú rừng. Nhưng các con hãy ăn thịt mẹ. Không là thịt người. Không bao
giờ mẹ là thịt người. Mẹ là thiên nhục.
Lời Mẹ quả là điềm gở. Hai hôm sau Mẹ qua đời trong
cái hang đá lạnh lẽo ấy. Cả nhà khiêng Mẹ ra đặt trên một phiến đá cao
bằng phẳng. Biển bao la thanh thoát. Bầu trời rất cao xanh. Tinh tú như
tỏ rạng ngay giữa ban ngày. Bầy hải âu bay, những cánh thiên đường. Rất
xa, một chiếc cầu vồng bảy màu hiện ra chênh chếch, nơi đó đang có thể
là mưa trong nắng, tụ hội thần linh, nơi có thể sẵn sàng đón một linh
hồn tinh khiết nhất, cao cả và thăng hoa nhất.
Không ngọn lạp, không nhang khói, không kèn đưa trống
tiễn. Chỉ có sóng trắng bủa xa xa. Chỉ có tiếng rừng của đảo trở nên âm
thầm ray rứt. Và chỉ có cậu Cả cầm cây giáo múa như điên trong không.
Cả muốn đâm mặt trời, muốn chém mây trắng, muốn chặt gió đang vi vu,
muốn lấy máu của đá.
Sau cùng, Cả cắm phập ngọn ngọn giáo lên nền cát rồi gục khóc nức nở.
5.
Trần Liêu chôn vợ một cách thầm lặng, dưới chân viên
đá tảng. Đầu người quay về hướng mà người ta tin rằng có đất liền nơi
quê nhà. Liêu căm giận nói với hai con:
- Giao Châu con gái ta bị chết thảm dưới tay bọn
cường quyền. Nay, vợ thân yêu của ta cũng chết thảm thương lúc ta bôn
đào. Nếu ta gặp cái thằng Số Mệnh ở đâu ta chặt đầu nó ở đấy, nếu quả
thật có một thằng Số Mệnh bằng xương bằng thịt.
Vài hôm sau, kể từ lúc Mẹ nằm yên trong lòng đất,
buổi chiều, không gian bỗng huyền hoặc lạ thường. Màu trời vàng lênh
láng, mây trôi chập chùng, gió nhẹ, biển lặng. Xa xa, vẫn cái cầu vồng
màu sắc hiện lên, như một chiếc cổng trời đầy hào quang. Thế gian như
được gọt đẽo thần tốc để có một phong diện kỳ ảo. Theo sóng biển, một
con cá nhà táng trôi dạt vào, kề bên nó là một chiếc thuyền buồm loại
nhỏ. Vào bờ được vài phút, cá nhà táng đã chết. Cha con Liêu tìm thấy
trên ghe có rất nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men, áo quần, những
loại giống ngũ cốc có thể gieo hạt. Lại có một ít vũ khí, một la bàn và
một bản đồ hải hành. Năm người trên ghe đã chết, máu me đầm đìa. Có
những bịch gạo thấm máu tươi như xôi gấc.
***
Thời gian trôi đi.
Đã hơn mười năm cha con Liêu sống nơi hoang dã. Họ
xây nhà, gieo hạt, trồng cây. Họ biến một phần đảo có hồn người. Họ khắc
đá dựng bia trên mộ người Mẹ. Họ tìm cách để lại trong hang đá những ký
hiệu, những lời dặn dò mong hướng dẫn những kẻ không may sau này lạc
vào hoang đảo như họ. Từ lâu, rất nhớ đất liền, cha con Liêu thề tìm mọi
cách trở về. Chim có tổ, nước có nguồn, cha con Liêu mong một mảnh quê
hương, được nghe tiếng nói của đồng bào mình.
Họ tự học cách sử dụng la bàn, bản đồ hải hành, cụ bị
lương thực, xẻ gỗ đóng thuyền. Thời gian đó, may mắn thay, một vài
chiếc thuyền buôn ghé đảo. Họ được tiếp xúc với những người thủy thủ da
trắng mà họ cho là man di – một loại người rừng đẹp đẽ. Rút kinh nghiệm
của lần ra đi năm xưa, bây giờ họ chuẩn bị kỹ lưỡng hơn; bàn bạc với
nhau tìm phương cách đối phó nếu gặp hiểm nguy.
Trần Liêu nay đã là một cụ già, giàu kinh nghiệm
nhưng sức sống không còn mãnh liệt như xưa; niềm tin cũng mòn mỏi. Liêu
không dám khẳng định một may mắn có thể chuẩn xác trong tương lai. Cả đã
là một gã đàn ông rắn rỏi, cương nghị. Những ngày cô đơn, gian khổ,
tuyệt vọng đã dạy Cả, nung đúc Cả thành một con người gan dạ, có chí
hướng.
Riêng cậu Út có khác, Út thường trực ưu tư, có dấu
hiệu tâm thần. Đi đâu về đâu, Út vẫn thấy những bất hạnh vây quanh.
Những ám ảnh siêu hình, những suy niệm duy tâm luôn đè nặng lên tâm cảm
cậu ta. Có lẽ Út sẽ trở thành một nghệ sĩ cô đơn, ca ngợi cái đẹp trong
đau xót riêng mình; đành lòng nơi một cõi trú rất phi lý mà phải tha
thiết với nó, vì nó. Út rất viễn mơ nhưng lại không tin vào điều tâm
nguyện, rất khinh đời, khuynh hướng vô chính phủ, thiếu óc tổ chức. Với
cậu, hy vọng chỉ là một sự phiền muộn, mong ước là dấu hiệu của xót đau
riêng tư. Út cho rằng con người tự kéo sợi tơ tham vọng quanh mình như
con tằm nhả kén chung quanh, sau cùng, đành chết giữa lòng tơ.
Sáng hôm ấy trời quang mây tạnh. Sau khi kiểm điểm
“quân mã”, cha con Liêu bái biệt hoang đảo, xuống thuyền dong buồm ra
đi. Ra đi? Có nghĩa là tìm về.
Lúc rời khỏi mái tranh nhỏ, nhìn mộ vợ dưới chân viên
đá tảng, những nương rẫy hãy còn mầm xanh, những hoa vàng quanh bờ
giậu, những con dê được mở cổng chuồng cho chúng về đỉnh đảo, bầy dê lại
đi quanh quẩn trong vườn, như nhớ ai, chúng đi dọc bờ rào gặm những đọt
xanh. Liêu động lòng nói, “Hóa ra đây là quê hương thứ hai, đã có máu
và mồ hôi chúng ta!”. Cả nói, “Sau này thế nào chúng ta cũng trở lại
đây. Có lẽ đây cũng là một hòn đảo quê nhà”.
***
Ngồi trên sóng bạc đầu, Trần Liêu nghĩ miên man về
con sông Thu, về Giao Châu, căm giận bọn Phú Hào, quan Huyện. Liêu nhớ
ngày tuổi nhỏ cùng cha vượt đèo cao, vào bờ Bắc sông Thu lập nghiệp. Một
đoàn người biệt xứ ra đi, từ đâu đó, để tới một đâu đó. Có dấu chân
người là có con đường, có xóm làng; những dây thân ái cùng khổ đau nối
kết, giăng tơ; và có những tên tuổi để gọi danh cho nó. Con người đã làm
ấm đất đai vốn nghìn xưa tẻ lạnh.
Thuyền buồm trôi dạt được hai đêm ngày thì bọn họ
thấy đất liền mờ mờ. Rất vui mừng, nhưng ba cha con Liêu lo ngại rằng có
phải mình đã đi đúng cái hướng mình muốn tới, hay sẽ lạc vào một vùng
người xa lạ, phải đâm chém vong mạng mới tìm được chốn nương thân.
Cả đề nghị không nên cập bờ ban đêm. “Tối trời nguy
hiểm lắm”. Liêu nói, “Cập bờ ban đêm sẽ tránh được sự dòm ngó của dân
địa phương”. Đôi mắt cứ đăm đăm nhìn vào mớ vũ khí, nghĩ tới một cuộc
đụng độ với người xứ xa lạ, Út nói, “Lần này chúng ta gặp một hoang đảo
nữa, ắt thành tiên thành Phật”.
Lúc bình minh rựng rựng ở phương đông, vạn vật còn
chìm trong lớp sương mờ ảo, thuyền của cha con Liêu cập bờ an toàn.
Trước mặt họ là một vùng nhấp nhô những đồi cát, rừng phi lao thưa thớt.
Vượt qua những đồi nương, mặt trời đứng bóng, cha con Liêu gặp những
cánh đầm lầy, nước xâm xấp. Rồi những khoảng rừng tràm gần như vô tận.
Chưa thấy nhà, chưa thấy khói, chỉ thấy bóng chim bay, tiếng sóng vỗ về
sau lưng.
Đêm đầu tiên cha con Liêu ngủ dưới một tàng cây đa
lớn, chim chóc về đầy. Họ vui mừng vì trong tiếng chim lao xao có một
cái gì tuy xa vắng nhưng quen thuộc. Có khi chỉ gặp một bóng dáng thiên
nhiên đã tưởng ra quê hương mình. Chỗ bầu trời chưa biết phương hướng,
có khi chỉ thoáng thấy một màu núi xanh lơ cũ, đã nghe lòng nao nức,
chừng xa kia có quê nhà.
***
Cha con Liêu cuốc bộ hai ngày đêm thì gặp một cánh
đồng khô, sau khi tìm cách vượt qua một con sông rộng. Từ phía hữu ngạn
đi lên, trong nắng chiều, họ bắt gặp hình ảnh xa xa một tháp Chàm. Cái
khối xương rồng khổng lồ ấy hiện lên nền trời xanh, làm rực cháy trong
tâm cảm cha con Liêu một niềm tin quen thuộc. Họ mừng rỡ nắm tay nhau.
Lần đầu tiên những nụ cười của họ có màu sắc, sau nhiều năm xám xịt âu
lo.
Họ bắt gặp một con đường mòn. Vậy là đã có dấu chân
người. Vậy là da thịt người đã làm mòn mặt đất, cát bụi đã bắt gặp mồ
hôi người, người và đất hơn một lần trò chuyện. Sau cùng cha con Liêu đi
vào một vùng đồi thấp. Cả bảo, “Hãy gắng đi lên cái ngọn đồi cao nhất
kia kìa”. Ý của Cả là nhân đó có dịp quan sát chung quanh, tìm phương
hướng cho ngày mai tiếp tục hành trình.
Lúc lên tới ngọn đồi cao nhất là lúc mặt trời sắp
lặn. Hoàng hôn tim tím, nhãn quang của cha con Liêu bỗng rực rỡ một
không gian thoáng rộng khi xa xa bên dưới là con đường quan lộ – có lẽ
là xuyên Bắc Nam – những ánh đèn leo lét của vài xóm nhà, những rặng cây
bóng tối. Con sông ngoằn ngoèo dẫn về Nam, không một cây cầu. Tất cả
hãy còn nhuộm vẻ hoang sơ, đầy đậm chất huyền ảo, của miền đất một dân
tộc đã bỏ đi và một đám di dân vừa lưa thưa tới. Bóng tối thì luôn luôn
giống nhau nhưng cái màu sắc nhân văn, cái ẩn số thần linh hãy rất là
khác nhau. Ở những cực điểm của hoàn cảnh, con người luôn luôn bị vò xé
bởi tâm cảm khó định hình.
Mỗi cha con Liêu rơi vào một trạng thái tinh thần
hoàn toàn khác nhau. Cậu Út rất ngợp trước những cơn gió không biên
cương nơi đỉnh đồi. Cậu lại ngạt thở trước tình huống tự do, mà theo
cậu, không đáng tán dương gì. Cậu muốn chết ngay tức thì.
Đêm đó, cha con Liêu ngủ trên một khoảng đất trên
sườn đồi phía nam – hầu hết những xóm làng trên sườn đồi hay sườn núi
Việt Nam đều nằm ở phía Nam. Vì sao vậy? Vì họ tránh gió mùa đông tanh
lạnh, từ phương bắc thổi vào. Mọi người mệt mỏi, không ai nói với nhau
được điều gì. Mỗi người ôm ấp một an lành riêng tư, nhấm nháp cái hương
vị đất liền sau nhiều năm xa cách. Dấu hiệu phục sinh được họ nhận ra
trong tiếng chim rừng quen thuộc, trong mùi cỏ, và trong từng lá cỏ đâm
nhói – dưới bờ lưng không mền chiếu.
Khuya, trời lạnh buốt. Trần Liêu tìm cách đốt một
đống lửa. Cha con ngồi vây quanh sưởi ấm, những bộ xương hồng. Liêu nói,
“Chúng ta lập nghiệp tại nơi đây được rồi các con ạ”. Cả nói, “Hãy đi
thêm nữa. Ngày mai có khi chúng ta tìm được một vùng đất phì nhiêu lý
tưởng hơn”. Út nói, “Chúng ta là những người trồng kiếp người cho mai
sau chứ không phải trồng cây tre cây lúa”.
***
Không gian như đượm hương. Đêm một màu đen tuyền,
muôn nghìn mắt tinh tú. Cách đó không xa, sóng bờ Bắc sông Thu vây bủa,
và những bầy voi trầm mặc đi, những con cọp vồ người vẫn còn giấu mặt
chờ sáng. Đã đổi quan huyện mới, nhưng Phú Hào đã xây cất thêm được
những dãy nhà mới. Cuộc sống vẫn tiếp tục đồng bộ đi tới bằng những bước
chân ác quỷ trá hình; và trong hiện thực màu xám hãy còn nhiều đầu lâu
khoác mặt nạ.
Đám lửa giữa cha con Liêu bừng lên, và những đám hồng
reo nổ – do những thanh cây, và những trái có chất dầu. Cậu Út dõi đôi
mắt vào đêm, như tìm cái tiền kiếp của cậu, hay cái gì đó mà cậu vẫn cứ
mơ màng là một phần hồn đang cất cánh bay đi. Một số những con nai con
sóc thấy ánh lửa chạy tới nhưng thấy người chúng lại phóng mình đi. Chim
chóc, cọp, beo, cả chuồn chuồn châu chấu trên ngọn đồi này, trong khu
núi thấp triền miên là rừng này, đêm nay, bọn chúng nhận ra rằng đã có
bọn người đặt chân tới; nghĩa là rồi ra, chúng sẽ tìm nơi nương thân
khác. Giữa đêm tịch mịch, trong ánh hồng soi mặt, Liêu nhìn hai con rồi
đột nhiên nói, giọng đầy âm sắc ngọt ngào:
- Các con, hãy vui sống để làm lại tất cả. Chúng
ta đang, và sẽ bắt đầu. Dẫu là trong đêm tối mịt mùng, nhưng trên quê
nhà, hôm nay ta đã đốt được một ngọn lửa hồng.
***
Ngọn lửa hồng ấy được đốt lên cách đây gần sáu trăm
năm, ngày Quảng Nam thuộc về đất Việt, những cư dân đầu tiên đã tới.
Ngọn đồi xưa kia cha con Liêu tới đốt lửa nay là Nỗng Ông Tào. Ngày nay
quanh đấy đã đầy những nương rẫy, xóm làng, cuộc sống cứ mãi đổi thay và
tiếp tục. Những dấu vết xưa, nay có xóa nhòa, tà huy hay bừng sáng, hy
vọng nối hy vọng, khổ đau chồng chất khổ đau, máu pha máu, mồ hôi cạn
dần trên mỗi xác thân lương thiện, cuộc sống con người có khai mở, sự
lạc hậu tối tăm có thể bị đẩy lùi; nhưng không phải thế, vì vậy, mà
những manh tâm nơi con người cứ tuần tự phai tàn đi.
Mỗi một con người sớm mai đẩy cửa ra đường ta đã nhanh chóng có một thằng bản ngã của nó huênh hoang và lếu láo bước theo. Và,
con người lương thiện ấy vẫn tưởng nó – cái phần phân thân kia- –đương
nhiên phải có như một chiếc bóng của ta trên mặt đường, dưới bóng mặt
trời. Ngày ngày chúng ta phải cứ hòa nhập với kẻ thù, chung cùng một
trái tim.
Thuở bé tôi từng nghe cha tôi kể câu chuyện trên –
vẫn buổi tối trăng lên ở ngọn cây gòn đầu ngõ, tiếng chuyện trò văng
vẳng của các thôn nữ ở vườn bên; tiếng chim đêm cùng trái rụng; gia đình
quây quần bên mâm cơm, trên cái sân gạch lung linh ánh trăng, lót dưới
mâm cơm là chiếc chiếu trải nền. Và lót dạ thêm cho những bữa ăn thiếu
chất là các truyện cổ tích, giai thoại, những câu đồng dao, những chuyện
tiếu lâm. Cái hương vị quê mùa thơ mộng ấy làm câu chuyện về cha con
Trần Liêu thấm đậm trong tôi. Đầu óc trinh bạch của tôi thuở ấy giữ mãi
câu chuyện trong một thần thái an lành.
Câu chuyện Trần Liêu không phải là chính sử, chẳng là
chuyện thần thoại, cổ tích, thậm chí có người cho rằng đó là một câu
chuyện không thể có thật. Tôi không nghĩ như thế. Bị một đau khổ đích
thực còn hơn có một niềm vui giả tạo. Bằng vào tính chất trong sáng,
nhân bản, không xa lạ với hiện thực, tôi tin rằng câu chuyện Trần Liêu
là có thật. Nếu không, chúng ta để Tình Người đi đâu, khi ngày nay nhìn
mặt nhau, gọi-là-mặt-người.
Ngọn lửa kia đã tàn trong thiên thu. Con cháu
Người-Đốt-Lửa hãy còn. Lửa ấy không chỉ là một thứ ánh sáng vô cảm,
trong một xã hội máy móc, lạnh lùng. Lửa ấy cũng không siêu nhiên xa lạ,
cũng không nằm chết trong ý nghĩa hạn hẹp hiện thực của lửa. Nó có thể
đã biến thành một dạng ánh sáng khác: đậm đà như ca dao, rực rỡ như lời
ca hạnh phúc, hay ngậm ngùi như tiếng hát gọi nát lòng của những thân
phận hẩm hiu của Mẹ, của Giao Châu.
Ngọn lửa thiên thu kia đã có một linh hồn và một tác động vĩnh cửu. Chúng ta ghi nhớ lại, cũng có nghĩa là sẽ-đốt-lên.
Và, chúng ta chẳng hề quên câu nói tiềm vọng của Liêu: “Chúng
ta sẽ bắt đầu làm lại tất cả. Dẫu rằng trong bóng tối mịt mùng, nhưng
trên quê nhà, hôm nay chúng ta đã đốt một ngọn lửa hồng”.
Bến Nghé, Sài Gòn 7.9.91,
sau những tháng năm dài Dị mộng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét