Nguyễn Thị Tịnh Thy
Tứ thư của Nho gia là bốn cuốn sách dạy con người về cương thường đạo lý. Tứ thư của Diêm Liên Khoa là bốn cuốn sách ghi lại những vết thương của lịch sử Trung Quốc thời hiện đại.
Tứ thư của Nho gia là bộ sách mà tất cả các sĩ tử ngày xưa cần phải đọc để làm người. Tứ thư của Diêm Liên Khoa là tiểu thuyết mà người Trung Quốc ngày nay cần phải đọc để trả nợ lịch sử.
Diêm Liên Khoa viết Tứ thư để “dâng tặng
hàng ngàn hàng vạn trí thức còn sống và đã chết cùng thời kỳ lịch sử bị
lãng quên”. Đó là thời kỳ cách mạng Đại nhảy vọt của Trung Quốc cuối
thập niên 1950, đầu thập niên 1960.
Tứ thư của Diêm Liên Khoa, Châu Hải Đường dịch, sách do Tao Đàn và NXB Hội nhà văn liên kết phát hành tháng 4.2019
Chuyện xảy ra ở trại cải tạo dành cho các trí
thức, được gọi là khu Dục Tân (đào tạo và bồi dưỡng con người mới), nằm
ven bờ sông Hoàng Hà. Trại viên của khu Dục Tân khoảng 23.300 người,
chín mươi phần trăm là trí thức. Giáo sư, cán bộ, học giả, nhà văn, thầy
giáo, bác sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ… dù cho kiến thức chất đầy năm xe, tài
cao tám đấu, tất tần tật đều bị đưa đến đây lao động cải tạo, bồi dưỡng
để thành con người mới. Và thật kinh khủng, cuộc cách mạng bồi dưỡng đó
đã thành công!
Trại cải tạo đã làm mới các trí thức. Mới đến mức
tất cả đều từ tốt biến thành xấu, cao thượng biến thành thấp hèn; từ
con người biến thành kẻ “mất tư cách làm người”. Họ biến thành súc vật?
Không, ví như thế thì rất tội cho súc vật. Họ biến thành ác thú? Không,
ví như thế thì ác thú sẽ kêu oan. Họ biến thành ma quỷ? Không, ví như
thế thì quá bất công với ma quỷ. Họ biến thành những sinh vật kỳ quái,
kinh dị đến mức không thể so sánh được với bất cứ sinh loài nào trên thế
gian này.
Khu Dục Tân được chia lô đánh số gồm 99 khu. Khu
thứ 99 có 127 trại viên trí thức cải tạo dưới quyền lãnh đạo tối cao của
nhân vật được mệnh danh là Con Trời – bộ đội phục viên. Lao động vất
vả, thiếu ăn thiếu mặc, thành tích giả dối, sách vở bị đốt…, các trí
thức đều khao khát được trở về nhà. Họ cắt máu tưới cho lúa ngô để tăng
năng suất; rình rập người khác phạm tội để bắt bớ, tố cáo nhằm lập công.
Trộm cắp, gian dối, so bì, soi mói, đố kỵ, hãm hại… những tiềm năng ác
độc trong con người được phát huy tối đa.
Mất mùa và thiên tai khiến cái đói trở thành đại
nạn. Đói! Đói lay lắt. Đói dữ dội. Đói kiệt cùng. Chết! Chết vì đói.
Chết vì rét. Chết vì vừa đói vừa rét.
Những người còn lại không đủ sức khiêng người
chết đi chôn, đành chất chồng thi thể đông cứng của họ trong một gian
nhà. Cuối mùa đông, sau khi ăn hết cả cỏ dại, dây nịt, giày dép…, các
trại viên đã tự cứu mình bằng cách ăn thịt những người chết. Giáo sư,
giáo viên, bác sĩ, chuyên gia, học giả…; đàn ông, đàn bà; người già,
người trẻ… đều nhóm bếp luộc thịt người. Mùi thịt theo khói bốc lên tanh
tưởi. Tiếng húp xì xoạp. Có người ăn để đủ sức treo cổ mình lên xà nhà,
có người ăn để chờ ngày được trở về nhà. Tổng cộng năm mươi hai xác
chết đông cứng, không xác nào còn nguyên vẹn, chỗ nào có thể xẻo ăn được
đều bị ăn hết.
Nhà văn Diêm Liên Khoa
Không chỉ riêng khu Dục Tân bị đói, mà Bắc Kinh
cũng đói, toàn đất nước đều đói. Con Trời đành phát cho mỗi trí thức một
túi đậu tương rang, một ngôi sao đỏ bằng sắt để họ có thể trở về nhà mà
không bị bắt, cho họ lấy lại những quyển sách còn sót sau vụ đốt sách
mà lâu nay anh ta âm thầm phục chế, bảo bọc. Con Trời không ra đi cùng
họ. Anh ta đóng một cái giá gỗ lớn hình chữ thập, tự đóng đinh mình trên
đó. Máu chảy ròng ròng…
Con Trời phóng thích các trại viên, thực chất là
trả họ từ nơi đói khát này về nơi đói khát khác. Về phần mình, anh chọn
cái chết như chúa Jesus. Chết vì giác ngộ sau bao đêm âm thầm đọc Kinh thánh và sách vở tịch thu được hay chết vì sụp đổ lý tưởng? Có lẽ cả hai.
Đề cập đến những chủ đề lớn như lịch sử, sinh mệnh, nhân tính, Tứ thư
là bi kịch của người trí thức, là sự phản tư đầy quyết liệt và đau đớn
về lịch sử Trung Quốc hiện đại. Đồng thời, Diêm Liên Khoa đã tiếp nối
một cách xuất sắc mô-tip “ăn thịt người” trong lịch sử văn học Trung
Quốc.
Thử thách lương tri của người trí thức bằng những
tình huống nghiệt ngã nhất, Diêm Liên Khoa đã khiến người Trung Quốc
phải đối mặt với “vết thương” lịch sử một cách trần trụi qua bút thuật
vô cùng sáng tạo, vô cùng tàn nhẫn. Mỗi cuốn sách trong Tứ thư được viết theo một thể văn khác nhau: thể Kinh thánh,
thể tự bạch, thể báo cáo chính trị và thể chuyện kể dân gian. Rất nhiều
câu văn ngắn, cực ngắn, siêu ngắn. Thủ pháp trùng chương điệp cú được
rải đều khắp. Nhiều dấu câu không đúng quy phạm ngữ pháp, từ đơn nhiều
hơn từ ghép và từ láy, danh từ và tính từ được động từ hóa tạo nên sự
khác lạ đầy tính bất trắc. Nhiều câu văn được trích dẫn trực tiếp từ Sáng Thế ký
như ẩn dụ về sự tẩy trắng văn minh, trở về thuở hồng hoang mà cách mạng
Đại nhảy vọt đã gây ra cho khu Dục Tân nói riêng và cả đất nước Trung
Quốc nói chung…
Nhân vật của Tứ thư không có tên. Tất cả
đều được gọi theo danh phận trước đây: học giả, tôn giáo, giáo sư, bác
sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ, thí nghiệm, pháp luật… Cách gọi này mang
tính mỉa mai một cách đau đớn, đồng thời có ý nghĩa khái quát rất cao.
Sự khái quát đó hàm ý nỗi bất hạnh lớn này không chỉ xảy ra cho
từng/những cá thể mà xảy ra cho cả một lớp người vốn được xem là tinh
hoa của xã hội, là rường cột của quốc gia. Số phận của họ bị điều khiển
bởi sự phi lý. Phi lý lịch sử đổ ụp xuống cuộc đời họ khiến cho nhân
cách, lý tưởng, niềm tin và tất cả những gì cao đẹp thiêng liêng nhất
đều sụp đổ. Họ bị đẩy xuống tận cùng của những dối trá, lường gạt, cơ
khổ; phải làm những việc không nên làm, sống cuộc đời không nên sống,
chết cái chết không đáng chết. So với thời của Tần Thủy Hoàng, sự trừng
phạt, hành hạ trí thức của thời cách mạng càng dai dẳng hơn, khắc nghiệt
hơn, tàn bạo hơn, khốc liệt hơn.
Giống như Vì nhân dân phục vụ, Kiên ngạnh như thủy, Phong nhã tụng, Đinh Trang mộng… Tứ thư
cũng đi thẳng vào đề tài gai góc. Viết để đối thoại, để chuộc lỗi, để
ăn năn, để trừng phạt và để sòng phẳng với lịch sử…, một lần nữa, Diêm
Liên Khoa đã tỏ rõ sự dũng cảm và chân thành của mình bằng cách chọn
“những điều không được phép viết”. Ông cho rằng, “khi bạn chọn điều đó,
thì bạn phải chấp nhận vứt bỏ tất cả, kể cả cơ hội được xuất bản tác
phẩm”. Chọn điều đó, nghĩa là bạn đang viết cho chính mình, bạn có thể
viết bất cứ điều gì mình muốn. “Không viết nổi một tác phẩm lớn là lỗi
của nhà văn chứ không phải lỗi của thời đại, đừng lấy những danh nghĩa
đẹp đẽ để che đậy trách nhiệm và năng lực của nhà văn”.
Kiên trì với quan điểm sáng tác đó, Tứ thư – tác phẩm mà Diêm Liên Khoa ưng ý nhất, hoàn thành năm 2010 nhưng bị hơn mười nhà xuất bản trong nước từ chối. Năm 2013, Tứ thư
được xuất bản ở Đài Loan. Năm 2014, tác phẩm được trao giải thưởng văn
học Kafka. Hội đồng trao giải chọn Diêm Liên Khoa bởi vì Tứ thư
là đỉnh cao sáng tác của ông, và vì ông là nhà văn “có dũng khí đối mặt
với hiện thực” – thứ hiện thực nghiệt ngã và tăm tối mà cả giới trí
thức và lịch sử Trung Quốc đều không dám ngoái đầu nhìn lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét