Điều ít biết về nữ quyền trong xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ (Tri Thức VN )
Một
số người nhìn nhận rằng, dưới sự ảnh hưởng của Nho giáo, nữ quyền dưới
thời quân chủ là cả một sự hẩm hiu và bi thương. Tuy nhiên, các bộ luật
nổi tiếng của Việt Nam, như Quốc triều hình luật (còn gọi là Bộ luật
Hồng Đức vào thời Lê sơ 1428-1527) và Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ
luật Gia Long ban hành năm 1815), cùng một số tài liệu khác, lại cho
chúng ta một góc nhìn khác về lịch sử… Người phụ nữ Việt Nam có thiếu nữ quyền dưới thời quân chủ? Trong xã hội quân chủ Việt Nam, nữ quyền thể hiện rõ nhất ở hai
phương diện: luật sở hữu và thừa kế tài sản; cùng luật hôn nhân. Một
cách tổng quát, người phụ nữ Việt từ thế kỷ 15 đã có quyền tư hữu ngang
hàng với chồng, giữ vai trò quan trọng trong gia đình và ngoài xã hội,
được bảo vệ trong hôn nhân.
Nữ quyền trong vấn đề sở hữu và thừa kế tài sản
Luật thời quân chủ đối xử rất công bằng đối với việc sở hữu tài sản,
không phân biệt nam nữ. Mặc dù không có thống kê đầy đủ, song những ghi
chép trong địa bạ thời Gia Long và Minh Mạng để lại đã phản ánh rõ và
củng cố thêm những quy định mà trước đó, trong luật pháp Lê triều đã ban
hành. Ví dụ như các tác giả Nguyễn Cảnh Minh và Đào Tố Uyên khi nghiên cứu
về tình hình ruộng đất ở ấp Thủ Trung (Kim Sơn, Ninh Bình) trong thế kỷ
19 đã cho biết, địa phương này có 2 chủ sở hữu nữ đó là: Phạm Thị Kiêu
sở hữu 1 mẫu đất ở và 5 sào ruộng, còn Phạm Thị Lưỡng sở hữu 5 sào đất ở
và 8 mẫu, 5 sào ruộng. Trong một nghiên cứu khác của tác giả Kim Jong Ouk về tình hình sở
hữu ruộng đất ở làng Mễ Trì (Từ Liêm, Hà Nội) trước năm 1945 cho thấy:
Chủ sở hữu là phụ nữ ở làng Mễ Trì có 198 người, chiếm 85 mẫu, 9 sào
(60,5%), trong đó số phụ nữ ở nơi khác đến Mễ Trì xâm canh và cũng được
thừa nhận quyền sở hữu là 14 người, chiếm 48 mẫu (33,8%). Pháp luật cũng phân xử công minh tài sản của vợ hoặc chồng, khi một
trong hai người không còn sống với nhau (có thể đã mất hoặc chia tay
nhau). Điều 1 và 2 của luật nhà Lê có ghi: “Chồng cùng vợ trước có
con, vợ sau không có con, hay vợ cùng chồng trước có con, chồng sau
không có con, mà chồng chết trước, không có chúc thư, thì điền sản thuộc
về con vợ trước, hay con chồng trước; Nếu vợ sau, chồng sau không chia
đúng phép thì bị xử phạt 50 roi, biếm một tư” (Điều 1). “Vợ
chồng không có con, hoặc ai chết trước, không có chúc thư, mà điền sản
chia về chồng hay vợ, cùng là để về việc tế tự không đúng phép, thì xử
phạt 50 roi, biếm một tư. Người trong họ không được giữ phần điền sản về
việc tế tự ấy nữa” (Điều 2).
Xử án. (Tranh qua ambn.vn)Về việc thờ tự và giữ hương hỏa, luật pháp Việt Nam thời quân chủ cũng quy định rõ: “Người
giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con
trai trưởng thì dùng con gái trưởng, ruộng đất hương hỏa thì cho lấy
một phần hai mươi” (Điều 4, bổ sung luật hương hỏa), và: “Cha
mẹ sinh được hai con trai, người con trai trưởng chỉ sinh con gái, con
thứ lại có con trai, thì phần hương hỏa giao cho con trai của người con
thứ; Nhưng con trai người con thứ chỉ sinh cháu gái, thì phần hương hỏa
trước kia lại phải trao trả cho con gái người con trưởng” (Điều 4, châm trước bổ sung về luật hương hỏa). Có thể nói rằng, trước pháp luật thời quân chủ, phụ nữ Việt thời xưa không hề thua kém gì thời nay.
Nữ quyền trong vấn đề hôn nhân
Khi nhìn nhận về vấn đề hôn nhân thời quân chủ, thường có một số ý
kiến cho rằng nữ quyền bị chà đạp với những khái niệm như “trọng nam
khinh nữ” hay “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tuy nhiên, nhìn lại luật
pháp Việt Nam thời bấy giờ, điều này có thật sự chuẩn xác? Điều đầu tiên trong hôn nhân là sự tự nguyện tự do của hai bên, không
bị lừa gạt trong mọi hoàn cảnh. Ví dụ như luật nhà Nguyễn có ghi: “Trường
hợp đôi trai gái bị chủ hôn dùng uy quyền bức bách, sự việc không do
mình làm chủ, nếu con trai từ 20 tuổi trở xuống, con gái còn ở nhà với
cha mẹ (tuy không phải là dùng uy quyền bức bách), thì cũng chỉ bắt tội
một mình chủ hôn, đôi trai gái đều không bị bắt tội”. Thậm chí đối với trường hợp lừa gạt trong hôn nhân thì luật cũng quy định rõ: “Nếu
trong việc cưới gả bên họ nhà gái lừa gạt, thì người chủ hôn bị xử phạt
80 trượng (chẳng hạn như người con gái bị tàn tật mà lại đưa chị em gái
ra thay mạo nhận là cô dâu để gặp mặt, đến khi làm lễ thành hôn mới đưa
người con gái bị tàn tật ra). Bắt truy hồi tiền của lễ lạt. Nếu bên nhà
trai mạo nhận thì xử nặng thêm một bậc (chẳng hạn như định hôn cho con
trai nhưng lại làm lễ thành hôn cho con nuôi. Lại như người con trai bị
tàn tật, lại đưa anh em trai ra thay, mạo nhận là chú rể để gặp mặt, đến
khi làm lễ thành hôn lại đưa người con trai bị tàn tật ra)”.
Xử án thời xưa. (Ảnh minh họa qua hinhanhvietnam.com)Đối với việc chồng mua bán vợ hay thê thiếp, cha mẹ cầm con gái, thì cũng bị luật nhà Nguyễn xử nghiêm: “Người
chồng đem thê thiếp cầm cố cho người khác làm thê thiếp, bản thân thực
vô liêm sỉ, lại đẩy thê thiếp vào hoàn cảnh thất tiết, thực là bại hoại
luân thường đạo lý nhiều lắm, cho nên xử phạt 80 trượng. Cha mẹ cầm cố
con gái cho người khác làm thê thiếp, xử phạt 60 trượng”. Những kẻ tiếp tay cho việc cầm cố, mua bán phụ nữ cũng bị trừng phạt: “Kẻ
cầm cố thê thiếp và con gái của người khác cùng với kẻ biết người khác
giả mạo thê thiếp là chị em gái mà vẫn lấy làm thê thiếp thì đều bị xử
tội giống như thế. Kẻ cầm cố thê thiếp của người khác cùng với người
chồng của họ bị xử phạt 80 trượng. Kẻ cầm cố con gái của người khác cùng
với cha mẹ người con gái đó đều bị xử phạt 60 trượng”. Còn nếu cưỡng bức phụ nữ thì sẽ phải bị treo cổ làm gương: “Phàm
kẻ cường hào ỷ thế cưỡng đoạt vợ và con gái gia đình lương thiện, gian
chiếm làm thê thiếp thì bị xử tội giảo (giam hậu) […]. Kẻ cường hào ỷ
thế hành hung tàn bạo, không cần sính lễ, công nhiên cưỡng đoạt tại nhà
vợ và con gái gia đình lương thiện đem về gian chiếm làm vợ tì thiếp của
mình, thì bị xử tội giảo”. Kẻ tòng phạm tham gia cưỡng đoạt phụ nữ cũng không thoát tội: “Kẻ
tòng phạm trong việc cưỡng đoạt vợ con nhà lương thiện rồi gian chiếm
thì chiểu theo tội kẻ thủ phạm xử giảo mà giảm đi một mức xử phạt 100
trượng, đồ 3 năm. Nếu như bị bức bách dụ dỗ đi theo chỉ là giúp đỡ khênh
vác thì chiểu theo trường hợp chưa thành hôn xử tội giảo, mà giảm đi
năm mức, xử phạt 70 trượng, đồ 1 năm rưỡi. Trường hợp giữa đường cướp
lấy mang về và chưa gian ô, nếu là tòng phạm thì thẩm xét thấy là giúp
sức cho kẻ làm ác thì xử nhẹ hơn kẻ thủ phạm bị tội lưu đày một mức, tức
là xử phạt 100 trượng, đồ 3 năm. Nếu bị bức bách dụ dỗ đi theo chỉ là
giúp đỡ khênh vác thì chiểu theo luật không nên xử nặng mà phạt 80
trượng”.
Nhìn nhận lại nữ quyền dưới thời quân chủ
Quốc triều hình luật (thời Lê sơ) có 6 quyển, 13 chương và 722 điều.
Trong đó có 200 điều phỏng theo luật nhà Đường, 17 điều phỏng theo luật
nhà Minh, 178 điều chung đề tài nhưng khác cách xử lý, và 328 điều không
tương ứng với điều luật nào của Trung Hoa cả. Còn Hoàng Việt luật lệ (thời Nguyễn) có 22 quyển, 34 chương và 398
điều. Trong 398 điều thì 397 điều là giống với nhà Thanh, nhưng cũng đã
được chỉnh sửa và cập nhật cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Dù chưa có nghiên cứu tham chiếu cụ thể tới các bộ luật của Trung
Hoa, nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng việc bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ dưới thời quân chủ phương Đông, dưới tư tưởng Nho giáo,
không chỉ ở riêng Việt Nam, không hề bị xem nhẹ. Tất nhiên, xã hội xưa rất khắt khe trong một số vấn đề khác như gian
dâm và phá thai. Trong đó, đặc biệt là tội gian dâm là bị thả trôi sông,
hoặc bị voi giày. Nhưng ví dụ như trong cuốn “Kỹ thuật của người An
Nam”, Henri Oger đã vẽ minh họa rằng nam tăng mà không biết giữ giới
luật, nữ giới mà lăng loàn, nếu phạm tội bại hoại nhân luân thì đều bị
thả trôi sông như nhau cả. Như vậy đây là vấn đề quan niệm gìn giữ đạo
đức của người xưa, chứ không phải vấn đề nữ quyền.
Nam tăng không giữ giới, nữ nhân dâm loạn sẽ bị thả trôi sông. (Tranh trong cuốn sách Kỹ thuật người An Nam)Mặt khác, quan niệm về “trọng nam khinh nữ” hay “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy” cũng cần được xem xét lại. Ví dụ như “trọng nam khinh nữ” thực
chất là câu nói “nam tôn nữ ti” xuất phát từ Kinh Dịch, là tư tưởng của
Đạo gia. “Thiên tôn địa ti, càn khôn định hĩ”, quan hệ nam nữ
như trời và đất, như âm và dương, như cương và nhu, chính là quan niệm
âm dương hòa hợp, phân rõ thiên tính, đã có sẵn trong càn khôn. Trong đó
Kinh Dịch cũng khen rằng: “Đất có tính nhu hoà, người quân tử lấy đức dày để nâng đỡ vạn vật”. Tương tự như vậy, tìm khắp Tứ thư Ngũ kinh cũng không thấy câu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Việc luật pháp bảo vệ phụ nữ như ở Việt Nam từ thế kỷ 15 có lẽ còn
vượt trước cả xã hội phương Tây vì cái gọi là làn sóng “nữ quyền”
(feminism) mới chỉ thực sự bắt đầu ở xã hội phương Tây vào cuối thế kỷ
19, mang theo nhiều hệ lụy về việc phá vỡ cấu trúc gia đình truyền
thống, tự do ly hôn, quan hệ ngoài hôn nhân, và phá thai. Những điều trên khiến chúng ta không khỏi suy nghĩ rằng: điều gì mới
thực sự là nguyên nhân khiến người phụ nữ Việt “khổ”? Có phải chăng việc
người phụ nữ phải gồng mình gánh lấy công việc của đàn ông đã khiến họ
khổ? Phải chăng vì “bình quyền” mà nam giới không còn tôn trọng và nâng
niu nữ giới, không còn hiểu được trách nhiệm của người đàn ông nữa? Việc
thôi thúc người phụ nữ phải tranh giành với người bạn đời của mình đã
phá hoại mối quan hệ trong gia đình, khiến một núi có hai hổ, khiến
tranh cãi và ly hôn xảy ra… Cái đẹp của nữ quyền truyền thống phải chăng
vì thế mà trở nên phai nhạt?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét