Nhớ xưa, khi khoảng 14, 15 tuổi, cứ chiều chiều là tôi và ông bạn Liêu
Chương Cầu (Nhân vật Nam chính trong Bài Thơ Lá Rụng), 2 đứa lại thả bộ
vào trường Tân Triều Cái Răng để học chữ Nho với Lặc Bệ ( 六伯 là Bác Sáu:
Người đứng tên làm Hiệu Trưởng Hành Chánh của Trường Tiểu học Tân Triều
Cái Răng) và tâm sự vụn vặt với Thầy NGUYỄN KIM LƯỠNG (Thầy LƯỠNG là
con trai thứ 5 của ông Hương Quản MUÔN, ở cách nhà cô QUANG 4, 5 căn gì
đó!)
Khi đó, cả 2 đứa đều mới vừa lỏm bỏm học các câu trong MINH TÂM BỬU GIÁM như: Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang. Kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tĩnh dã V.V. và. V.V...
Khi đó, cả 2 đứa đều mới vừa lỏm bỏm học các câu trong MINH TÂM BỬU GIÁM như: Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang. Kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tĩnh dã V.V. và. V.V...
Bây giờ thì...
Tôi giới thiệu sơ lược về ông bạn vàng nầy của tôi nhé! Cũng là một học sinh TÂN TRIỀU cũ (Tân Hưng Cái Răng sau nầy) của ta mà!
Học trong trường tên là LIÊU KỲ 廖其, nhưng giấy Khai Sanh thì tên LIÊU CHƯƠNG CẦU 廖章求, lớn hơn tôi 5 tuổi, học thấp hơn tôi 2 lớp. Lý do: Học tiếng Việt trước rồi mới vào học chữ Hoa sau. Người Quảng Đông, nên tôi thường gọi anh ta bằng "TÀI LŨ" (như Anh Hai trong tiếng Việt ta vậy). Nhà nghèo, Ba làm "Tổng Khậu" nấu ăn cho trại cưa của ông "Tắc Yìn", má bán bánh chuối, nên đi học phải... "trông chừng nắng" vì không có đồng hồ.
Lúc đó, buổi trưa, hai đứa thường chắc mót chút đỉnh tiền còm để đi uống cà phê ở quán nước Thắng Ký của ông "Síl sán Hòn", buổi chiều thì vào trường học chữ Nho với "Lặc Bệ" và để... nhìn lên cửa sổ phía bên hông trường, trong cánh cửa sổ đó có cô bạn học gái Kha Huệ mà anh ta để ý thương thầm.
Tôi giới thiệu sơ lược về ông bạn vàng nầy của tôi nhé! Cũng là một học sinh TÂN TRIỀU cũ (Tân Hưng Cái Răng sau nầy) của ta mà!
Học trong trường tên là LIÊU KỲ 廖其, nhưng giấy Khai Sanh thì tên LIÊU CHƯƠNG CẦU 廖章求, lớn hơn tôi 5 tuổi, học thấp hơn tôi 2 lớp. Lý do: Học tiếng Việt trước rồi mới vào học chữ Hoa sau. Người Quảng Đông, nên tôi thường gọi anh ta bằng "TÀI LŨ" (như Anh Hai trong tiếng Việt ta vậy). Nhà nghèo, Ba làm "Tổng Khậu" nấu ăn cho trại cưa của ông "Tắc Yìn", má bán bánh chuối, nên đi học phải... "trông chừng nắng" vì không có đồng hồ.
Lúc đó, buổi trưa, hai đứa thường chắc mót chút đỉnh tiền còm để đi uống cà phê ở quán nước Thắng Ký của ông "Síl sán Hòn", buổi chiều thì vào trường học chữ Nho với "Lặc Bệ" và để... nhìn lên cửa sổ phía bên hông trường, trong cánh cửa sổ đó có cô bạn học gái Kha Huệ mà anh ta để ý thương thầm.
Bài Thơ Lá Rụng có những đoạn: Lá rụng! Lá rụng! là do Ý của anh ta đó,
vì lúc đó anh ta rất mê quyển tiểu Thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái
Hưng, nên mới nhại các từ LÁ RỤNG! LÁ RỤNG! ở cuối quyển tiểu thuyết đó.
Một điều rất đáng tự hào là anh ta và Tôi đều là học sinh chỉ tốt nghiệp Tiểu Học tiếng Hoa ở trường Tân Triều Cái Răng, rồi cùng nhau tự học, tự nghiên cứu, và cuối cùng... cùng được dạy ở các Trung Tâm ngoại ngữ của các Đại Học, cùng đi gác và chấm thi cho các Chứng Chỉ A,B,C của môn Ngoại Ngữ tiếng Hoa.
Một điều rất đáng tự hào là anh ta và Tôi đều là học sinh chỉ tốt nghiệp Tiểu Học tiếng Hoa ở trường Tân Triều Cái Răng, rồi cùng nhau tự học, tự nghiên cứu, và cuối cùng... cùng được dạy ở các Trung Tâm ngoại ngữ của các Đại Học, cùng đi gác và chấm thi cho các Chứng Chỉ A,B,C của môn Ngoại Ngữ tiếng Hoa.
Hiện giờ, ông bạn của tôi vẫn còn dạy cho Trung Tâm Ngoại Ngữ của Đại
Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Sài Gòn, mặc dù năm nay đã 76 tuổi rồi!
(vượt qúa Thất thập nhị Huyền công, 72 phép như Tề Thiên Đại Thánh, mà
còn gân lắm!) Có người vui miệng hỏi: "Tôi thấy ông học chữ Tàu có mấy
năm, ít quá, mà sao đi dạy được?" thì ông bạn của tôi cười mà trả lời
rằng: "Có một bửa đang đi ngoài đường, bỗng đá được một vật gì ở dưới
chân, lượm lên, thì ra là sách dạy làm THẦY GIÁO DẠY TIẾNG HOA, nên về
nhà coi theo đó mà đi dạy, dễ ợt!" ??!!...
Trở lại truyện lúc 14, 15 tuổi...
Một hôm, Bác Sáu kể cho nghe về chuyện tình của Lương Sơn Bá Chúc Anh
Đài, thì anh bạn Cầu của tôi đã nổi hứng làm một bài Đường Luật Thất
Ngôn Bát Cú như sau:
梁祝姻緣 Lương Chúc Nhân Duyên
千秋梁祝此姻緣, Thiên thu Lương Chúc thử nhân duyên,
悲慘兩同共筆硯。 Bi thảm lưỡng đồng cộng bút nghiên.
竹綠流風分折斷, Trúc lục lưu phong phân chiết đoạn,
梅黃借雨泣纏綿。 Mai Hùynh tá vũ khấp triền miên.
三年求學情如海, Tam niên cầu học tình như hải,
一旦相離恨似天。 Nhất đán tương ly hận tự thiên.
欲請高天頒旨意, Dục thỉnh cao thiên ban chỉ Ý,
如何薄待此良緣? Như hà bạc đãi thử lương duyên?
廖其(章求) Liêu Kỳ (Chương Cầu)
Bài thơ tuy còn ngô nghê, sử dụng nhiều từ trùng lặp, nhưng ý tứ cũng liền lạc và đúng niêm luật, nên đọc lên nghe cũng rất xuôi tai. Lúc đó Tôi và anh bạn tôi đều mới bắt đầu học Hán Văn nên tôi phục anh bạn tôi quá chừng chừng, và cũng vì vậy mà cho đến ngày hôm nay tôi vẫn còn nhớ thuộc lòng bài thơ nầy. Đọc lại vẫn còn thấy hay hay, nên xin giới thiệu với các bạn đọc chơi cho vui.
Nghĩa Bài Thơ:
Cho đến ngàn năm sau thì chuyện tình của Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài
nầy vẫn là chuyện tình bi thảm của lứa đôi trong lúc cùng chung đèn sách
bút nghiên. Như cây trúc xanh trước gió bị gãy ra làm nhiều đoạn, và
như mai vàng mượn hạt mưa làm giọt lệ để khóc triền miên. Ba năm cùng
học hành với nhau tình sâu như biển, trong một ngày lại phải chia tay
nhau thì cái hận cũng cao ngút trời. Muốn hỏi Trời già rằng sao không
ban ra cái chỉ ý tốt, mà lại đối xử tệ bạc với mối lương duyên nầy?!
Đọc câu số 4: "Mai Huỳnh tá vũ khấp triền miên", làm ta nhớ đến một vế
thơ của Thế Lữ trong bài "Giây Phút Chạnh Lòng" là:
....Em đứng nghiêng mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng lệ hoa rơi.
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo: Hoa kia khóc hộ người!...
Diễn Nôm:
Mối Duyên Lương Chúc
Ngàn năm Lương Chúc mối tơ duyên,
Bi thảm làm sao nợ bút nghiên.
Trúc gãy thôi xanh sầu gió thảm,
Mai vàng mượn lệ khóc triền miên.
Ba năm đèn sách tình như biển,
Một buổi chia lìa hận tựa thiên.
Dám hỏi cao xanh sao khắc nghiệt,
Vì đâu bạc đãi mối lương duyên ?
Lục bát :
Ngàn năm Lương Chúc nhân duyên,
Chuyện tình bi thảm bút nghiên thêm rầu.
Gió đưa trúc gãy vì đâu,
Mai vàng rướm lệ nghe sầu mênh mông.
Ba năm chung học tình nồng,
Một ngày ly biệt hận lòng vút cao.
Ông xanh sao nở gắt gao,
Chia lìa đôi lứa đành sao hỡi Trời!?
Mối Duyên Lương Chúc
Ngàn năm Lương Chúc mối tơ duyên,
Bi thảm làm sao nợ bút nghiên.
Trúc gãy thôi xanh sầu gió thảm,
Mai vàng mượn lệ khóc triền miên.
Ba năm đèn sách tình như biển,
Một buổi chia lìa hận tựa thiên.
Dám hỏi cao xanh sao khắc nghiệt,
Vì đâu bạc đãi mối lương duyên ?
Lục bát :
Ngàn năm Lương Chúc nhân duyên,
Chuyện tình bi thảm bút nghiên thêm rầu.
Gió đưa trúc gãy vì đâu,
Mai vàng rướm lệ nghe sầu mênh mông.
Ba năm chung học tình nồng,
Một ngày ly biệt hận lòng vút cao.
Ông xanh sao nở gắt gao,
Chia lìa đôi lứa đành sao hỡi Trời!?
Đỗ Chiêu Đức
THANH MINH
Một năm có 4 mùa, mỗi tháng có 2 tiết, Thanh Minh 清明 là tiết đầu của tháng 3, thường nằm ở cuối tháng 2 và giữa tháng 3 trở lại. Tiết Thanh Minh như ta đã biết qua Truyện Kiều:
Thanh Minh trong tiết tháng ba,
Lễ là Tảo Mộ, hội là Đạp Thanh.
Thanh
清 là trong, Minh 明 là sáng. Tiết Thanh Minh 清明節 là ngày tiết trời trong
sáng của cuối Xuân sau những ngày mưa xuân phơi phới làm lạnh lẽo lòng
người! Sau những ngày rét mướt của mùa đông, thì đây là dịp để ra thăm
lại mồ mả ông bà, nên mới có lễ Tảo Mộ, Tảo 掃 là quét dọn, Mộ 墓 là mồ
mả. Tảo Mộ 掃墓 là quét dọn lại mồ mả ông bà cho sạch sẽ khang trang, đồng
thời cũng làm Lễ cúng bái như trình cho ông bà Tổ Tiên biết để cùng bắt
tay vào vụ mùa sắp đến. Sẵn dịp trời quang mây tạnh, sau những ngày mưa
phùn rét mướt, giờ đây thì:
Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
nên... nam thanh nữ tú lại có dịp du Xuân, đạp lên cỏ non mà dạo khắp núi đồi gò đống. Đạp Thanh 踏青 là đạp lên trên những cỏ non xanh biếc, "Xuân du phương thảo địa" mà...
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy bay!
Nói thì nói thế, chứ thời tiết cũng còn lạnh lắm, không phải cái lạnh
hiu hắt của gió Thu, cũng không phải cái lạnh buốt da của mùa Đông, mà
là cái lạnh dễ chịu của mưa Xuân phơi phới. Ta hãy nghe nhà thơ ĐỖ MỤC
tả cảnh Thanh Minh như sau:
THANH MINH 清明
Thanh minh thời tiết vũ phân phân 清明時節雨纷纷
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn 路上行人欲断魂
Tá vấn tửu gia hà xứ hữu? 借問酒家何處有?
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa Thôn ! 牧童遥指杏花村!
Đỗ Mục 杜 牧
Ghi Chú :
1. Phân Phân: Là Liên tục không dứt, là Phơi Phới, là Phơn phớt.
2. Dục Đoạn Hồn: là Muốn đứt cái hồn ra, là buồn thúi ruột.
3. Tá Vấn: là Ướm hỏi, là Hỏi thăm (việc gì hoặc cái gì đó...)
4. Mục Đồng: là những đứa bé chăn dê, chăn cừu hoặc chăn trâu...
5. Hạnh Hoa Thôn: Có 2 nghĩa:
* Là cái Thôn tên là Hạnh Hoa, Xóm Hạnh Hoa.
* Là Cái xóm ở phía sau rừng hoa Hạnh.
Ghi Chú :
1. Phân Phân: Là Liên tục không dứt, là Phơi Phới, là Phơn phớt.
2. Dục Đoạn Hồn: là Muốn đứt cái hồn ra, là buồn thúi ruột.
3. Tá Vấn: là Ướm hỏi, là Hỏi thăm (việc gì hoặc cái gì đó...)
4. Mục Đồng: là những đứa bé chăn dê, chăn cừu hoặc chăn trâu...
5. Hạnh Hoa Thôn: Có 2 nghĩa:
* Là cái Thôn tên là Hạnh Hoa, Xóm Hạnh Hoa.
* Là Cái xóm ở phía sau rừng hoa Hạnh.
Như trên đã nói, Thanh Minh là dịp để quét tước lại mồ mả ông bà, là
hội Đạp Thanh để nam thanh nữ tú du xuân... Nhưng, Đỗ Mục lại bảo là
"dục đoạn hồn." À , thì ra, tác giả đang xa nhà, ta hãy đọc lại cả câu
xem sao...
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn...
Người lữ khách xa nhà đi trên đường một thân một bóng, thay vì cùng
người nhà đi tảo mộ hoặc đạp thanh, nên càng cảm thấy thấm thía hơn với
nỗi buồn xa xứ trong cảnh mưa phùng lất phất... cho nên mới muốn tìm ly
rượu để sưởi ấm cõi lòng tha hương chiếc bóng...
Diễn nôm:
THANH MINH
THANH MINH
Thời tiết Thanh minh lất phất mưa
Trên đường lữ khách muốn say sưa
Rượu ngon ướm hỏi nơi đâu bán?
Xóm Hạnh, Mục đồng chỉ trỏ thưa!
Theo Giai Thoại Văn Chương VN của Thái Bạch thì: Các cụ ta ngày xưa muốn tỏ rõ cái tinh thần độc lập, cái đầu óc cầu tiến, không quá lệ thuộc vào cổ nhân, nên đã "chê" bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt nầy của Đỗ Mục là: Mỗi câu dư 2 chữ. Các Cụ lý luận như thế nầy: "Thời tiết vũ phân phân" thì biết là thời tiết của Thanh Minh rồi, nên không cần phãi có 2 chữ Thanh Minh nữa. "Hành nhân dục đoạn hồn" là đủ nghĩa rồi, không cần phải có 2 chữ Lộ Thượng, đi trên đường chớ không lẽ đi "dưới nước"?! "Tửu gia hà xứ hữu?" đã là câu hỏi rồi, cần chi phải có từ "Tá Vấn"? "Dao chỉ Hạnh Hoa Thôn" đủ nghĩa rồi, ai chỉ mà chả được, cần gì phải "Mục đồng" chỉ mới được! Như thế bài thơ Thất Ngôn trên nên viết lại thành Ngũ Ngôn cho nó gọn, như sau:
Thời tiết vũ phân phân
Hành nhân dục đoạn hồn
Tửu gia hà xứ hữu ?
Dao chỉ Hạnh Hoa thôn !
Hành nhân dục đoạn hồn
Tửu gia hà xứ hữu ?
Dao chỉ Hạnh Hoa thôn !
Nói thì nói thế, chứ thơ Ngũ ngôn và Thất ngôn âm điệu và tiết tấu vẫn
khác nhau xa, nhưng đây cũng là một gợi mở của Cha Ông để cho con cháu
đừng quá bị lệ thuộc vào cổ nhân mà thôi! Âu cũng là một sáng kiến hay
đó!...
......................................................
Học theo gương của người xưa, nhớ hồi tôi còn trẻ (khoảng 15- 16 tuổi gì đó), khi vừa đọc được bài viết trên của Thái Bạch, cũng vừa là lúc Thầy đang cho đọc bài "Phùng Nhập Kinh Sứ" của Sầm Tham như sau:
逢入京使 PHÙNG NHẬP KINH SỨ
故園東望路漫漫, Cố viên đông vọng lộ man man,
雙袖龍鐘淚不幹。 Song tụ long chung lệ bất can.
馬上相逢無紙筆, Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
憑君傳語報平安. Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
岑参 Sầm Tham.
NGHĨA BÀI THƠ :
GẶP NGƯỜI SỨ GIẢ ĐI VỀ KINH THÀNH
Cố viên là cố hương, là quê nhà ở mãi tận phương trời Đông với đường xá xa xôi diệu dợi (lộ man man!) Hai tay áo già nua lụm cụm (Song tụ long chung) không lau sạch hết dòng lệ nhớ quê hương không lúc nào khô cạn (lệ bất can). Gặp nhau giữa đường trên ngựa đây, lại không có bút mực giấy viết gì cả! Chỉ nhờ anh nhắn miệng lại dùm là: Tôi rất khỏe mạnh bình an mà thôi!
雙袖龍鐘淚不幹。 Song tụ long chung lệ bất can.
馬上相逢無紙筆, Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
憑君傳語報平安. Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
岑参 Sầm Tham.
NGHĨA BÀI THƠ :
GẶP NGƯỜI SỨ GIẢ ĐI VỀ KINH THÀNH
Cố viên là cố hương, là quê nhà ở mãi tận phương trời Đông với đường xá xa xôi diệu dợi (lộ man man!) Hai tay áo già nua lụm cụm (Song tụ long chung) không lau sạch hết dòng lệ nhớ quê hương không lúc nào khô cạn (lệ bất can). Gặp nhau giữa đường trên ngựa đây, lại không có bút mực giấy viết gì cả! Chỉ nhờ anh nhắn miệng lại dùm là: Tôi rất khỏe mạnh bình an mà thôi!
DIỄN NÔM :
GẶP SỨ LAI KINH
Vườn xưa diệu dợi mỏi mòn trông,
Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
"Bình an" nhờ báo kẻo nhà mong!
Vườn xưa diệu dợi mỏi mòn trông,
Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
"Bình an" nhờ báo kẻo nhà mong!
Bắt chước tiền nhân, lúc đó tôi cũng lý luận với thầy rằng: Trông ngóng về hướng Đông, vì quê nhà ở nơi đó, cho nên chỉ nói: "Đông vọng lộ man man" là đủ rồi, đâu cần phải có từ "Cố Viên"?! Già nua lụm cụm nên lau không khô dòng lệ nhớ quê hương, lau bằng gì mà chả được, đâu cần phải lau bằng 2 tay áo, nên câu 2 cũng không cần phải có từ "Song Tụ", chỉ "Long chung lệ bất can" là đủ. Tương tự câu 3 cũng vậy, gặp nhau ở đâu cũng được, không nhất thiết là gặp nhau trên ngựa mới không có giấy bút, nên chỉ "Tương phùng vô chỉ bút" là đủ rồi! Câu chót thì lại lịch sự đến khách sáo, gặp anh, không nhờ anh thì nhờ ai đây, nên đơn giản là "Truyền ngữ báo bình an" cũng gọn gàng và lịch sự lắm rồi! Nên, bài thơ Thất Ngôn trên sẽ trở thành bài thơ Ngũ Ngôn như sau:
Đông vọng lộ man man,
Long chung lệ bất can.
Tương phùng vô chỉ bút,
Bằng ngữ báo bình an !
Thầy giáo lúc bấy giờ khen lấy khen để, cho là học sinh có ý kiến và suy nghĩ hay ho, không đọc thơ một cách cứng ngắt bài bản... Thầy đâu có biết rằng, cái thằng học trò ranh mảnh nầy chỉ bắt chước và làm theo "Giai Thoại Văn Chương Việt Nam" của Thái Bạch mà thôi, chớ cũng chẳng hay ho gì hơn ai hết!
Chuyện qua đã hơn 50 năm, bây giờ nhắc lại, lại cảm thấy bồi hồi xúc động, thời gian không chờ đợi ai cả, thoáng cái mà tuổi đã 70 rồi! Muốn nói cho Thầy biết là mình chỉ nhại lại cái việc làm của người đi trước mà thôi, thì Thầy đã không còn nữa!... Thầy ơi!...
*THẦY :
Ở đây là Bác Sáu 六伯 (Lặc-Bệ , theo âm Phúc Kiến), có bằng Cao Đẳng Tiểu
Học thời Pháp Thuộc, nên đứng tên làm Hiệu Trưởng về Mặt Hành Chánh cho
trường Tiểu học TÂN TRIỀU Cái Răng, trước nhiệm kỳ của cô NGUYỄN KIM
QUANG. Ông là anh ruột của bà Hiệu Trưởng họ THI 施 (Bà Sứ) sau này.
Ông không trực tiếp đứng lớp, chạy loạn từ Trung Hoa đại lục sang, nhưng
nói tiếng Việt rất sỏi như người bản xứ, giỏi Văn Chương Văn Học Hán
Việt. Ông ở trọ hẵn trong trường học, rất thân thiện và hòa đồng với
học sinh. Chúng tôi thường đến phòng ông chơi, học thơ Đường, Tản văn,
làm câu đối... và thường gọi ông là Bác Sáu (Lặc Bệ) cho thân mật, chớ
không có gọi bằng Thầy, hoặc Hiệu Trưởng gì cả!
Đỗ Chiêu Đức
Mời Xem : Đôi Điều Tâm Sự V - Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét