đó là thịt…!!
Một chút thơ làm duyên khởi
Ngày
nay có gần 3 triệu người Việt Nam sống ngoài quê hương nên gọi là “Dân
Việt Nam
Hải Ngọai”. Một món nổi tiếng mà họ đã phổ biến khắp nơi theo buớc chân
lưu vong của họ là “Phở”. Ở vùng Bắc Mỹ, nơi nào có cộng đồng Việt là kể
như có ít nhất một tiệm phở để không những dân Việt đến ăn mà còn thu
hút khách Mỹ địa phương. Trước vài tiệm phở
mở ra có thời, vào giờ ăn trưa, khách Mỹ phải xếp hàng dài đợi ăn.
Tuy
nhiên, có một vấn đề khá ngộ là món phở là món quốc hồn quốc túy của
Việt Nam,
nhưng có thể nói danh từ về thịt bò của phở thì người mình chỉ ăn mà ít
để tâm tìm hiểu. Do đó, tôi có làm một bài thơ cảm hoài sau theo ngẩu
hứng:
Dăm
vần Lục Bát : Đố Ai !
Đố ai bò xẻo mấy nơi
Để ta gọi phở đãi chơi bạn bè!
Đố ai nhớ kể đủ nghe,
Để ta thưởng thức phủ phê cuộc đời!
Chín, tái, gân, nạm ai ơi,
Sách giòn, gầu béo muốn thôi hay ngừng?
Vè, vú, ngầu-pín tưng bừng,
Hành dấm, nước béo xin cưng nhớ dùm!
Ngò gai, húng quế tùm lum,
Tương đen, ớt đỏ bỏ chung tuyệt vời!
Giá sống tươi mát gọi chơi,
Ngọt thơm bùi béo kêu trời đã ghê!
Yêu nhau lạc nẻo sông Mê,
Việt Nam bát phở mọi bề nhớ thương.
Đôi ta cách nẻo sông Tương,
Cùng húp nước phở như dường bên nhau!
Chữ rằng: Quân tử hảo cầu
Bò ngon, phở béo ở đâu cũng tìm!
Phương trời lưu lạc cánh chim,
Việt Nam bằng hữu trong tim dạt dào
Tình quê lưu luyến làm sao,
Cùng ăn tô phở nôn nao giải bầy!
Cùng nhau ước hẹn một ngày
Ôm nhau vồn vã vòng tay nồng nàn!
Lê văn Lân
Sành
ăn và tận dụng của trời cho !
Có
người thắc mắc về nét ăn cầu kỳ của dân Việt trên miếng thịt bò: Tại
sao phải đòi
hỏi tỉ mỉ về những chi tiết trong một tô phở trong khi tô mì hay hủ-tiếu
của Tàu không như vậy, nào là chín, tái, gầu, nạm, gân, sách… nào là
húng-quế, ngò gai, giá sống, nào là tương đen, ớt đỏ, chanh, dấm …tùm
lum.
Trong bài Luận về Phở đăng trên báo Quốc Gia số 52, tháng 7, năm 1996, ông Phạm Hồng
Hà đã viết:
Theo
những người lớn tuổi kể lại thì buổi đầu ở miền Bắc chỉ có phở bò chín.
Nghĩa
là cả xương và thịt đều được cho vào nồi ninh. Thịt bò làm phở chín cũng
không cần chọn lọc gì cả. Gân cốt, bạc nhạc cho vào ninh nhừ vừa phải
vớt ra đúng lúc để ráo nước, rồi thái mỏng xếp lên trên mặt trên của bát
phở.
Làm
bạn với quán phở không phải chỉ có những người cần ăn cho no để có sức
“kéo cầy”
hoặc trẻ em thì ấm bụng tới trường, mà còn có nhiều đệ tử lưu-linh.
Những vị này vào quán phở thường gọi thêm vài ly rượu trắng. Uống rượu
mà không có cái gì sậm sựt thì cũng nhạt nhẽo. Thành thử mấy vị kêu chủ
quán chọn cho miếng sụn, miếng thịt bắp có gân
cốt để nhâm nhi. Lần lần những bộ phận của con bò như gân, gầu, sách
được coi như đặc sản của từng quán phở bò.
Đây
cũng gọi là một sự giải thích đáng chú ý. Như vậy, về phương diện tuổi
tác, miếng
“chín” là miếng thịt hàng thủy tổ trong bát phở thuở ban đầu thời còn mồ
ma nhà văn Thạch-Lam tác giả "Ba mươi sáu phố phường", còn bao nhiêu
“tái, nạm, gân, gầu v.v…” đóng vai vệ tinh châu tuần thì thuộc thế hệ
hậu duệ trẻ trung mới được phát kiến về sau
trong nghệ thuật ăn phở bò…
Theo
tôi thì sự tình phát kiến đã bắt nguồn từ tinh thần tận dụng kiệm uớc
của Á Đông…
đi cùng với sự sành ăn. Vỏ quít, cùi bưởi còn biến chế thành trần bì nấu
lục tầu xá, thành mứt! Tim, lòng, gan, phèo phổi heo còn chế thành phá
lấu. Ngay cả đống xương phở “xí quách” (còn gọi là món “cải mả” hay “bốc
mộ”) cũng không đến nỗi quăng cho chó gặm
trước khi cho bợm nhậu nhâm nhi. Do đó, bao nhiêu thứ bạc nhạc sao lại
không thành món kỳ trân khoái khẩu nhỉ?
Việt
Nam mình há chẳng có câu: Hết nạc vạc tới xương! Gặm xương quả là môt
cái thú
đối với nhiều người Á Đông trong tinh thần “ tay làm hàm nhai, tay quai
miệng trễ” và khi ăn vật thực của trời cho hay do công lao bàn tay kiếm
ra thì luôn giữ tinh thần tận dụng : Ăn hết đánh đòn, ăn còn đánh chết!
Mẹ tôi thường răn dạy tôi trên mâm cơm nếu
mà tôi vì tham ăn hóc uống không giữ ý tứ mà gắp lấy một miếng ngon thì
cái tội là “bị đòn” vì vô lễ và không biết nhường nhịn, nhưng lỡ đã gắp
ăn thì ăn cho hết, chớ có bỏ mứa thì phãi tội với trời đất, tội đó nặng
vô cùng, kiếp sau đầu thai làm con vịt ăn
bòn đồ thừa thãi bỏ đi.
Và
một điều khác cũng cần biết là trong nét sành ăn vật ngon là biết
thưởng thức “cấu
trúc sơ thớ”(texture) của thực phẩm! Ăn một miếng Sandwich Mỹ bổ béo
nhưng ỉu xèo, một miếng bít-tết “tender loin”nhũn mềm như môi phụ nữ,
ngon thì có ngon nhưng cái ngon đâu sánh bằng cái thú “nhai” và thưởng
thức cái cứng giòn, cái dai dai, sừn-sựt “miệng
nhai, tai nghe” của ổ bánh mì kẹp thịt VN hay gặm một khúc xương còn
dính gân, nạm nhỉ? Do đó, ăn một tô phở Việt Nam đúng điệu khác hẳn một
tô Súp Tây phương ăn khai-vị chỉ dùng muỗng mà “húp”, vì bao nhiêu cơ
bắp của hàm nhai (masticator) trên mặt của người
ăn tha hồ có dịp khai triển thi thố làm lông tóc thái-dưong tưng bừng mở
hội! Cái ngon phải đến từ răng nhai!
Một
cục gân bằng mười cân thuốc bổ !
Nói đến kỳ-trân thì trong tô phở Việt Nam, bên cạnh thịt thì có thêm thứ là “Vú sữa”
và “Ngầu Pín” gọi là ăn theo kiểu tạng-phủ liệu-pháp (organotherapy), ăn gì thì bổ nấy hay chủ trương “ăn nên thuốc”.
Vú
bò cái là một kỳ-trân của Phở Hòa Pasteur trước 1975, ăn rất thơm và
ngầy ngậy
, nhưng hình như không sẵn vì lấy đâu ra đồ trân phẩm của bò cái đang
nuôi cho con bú cho những người phàm tục. Tuy nhiên thì món ngầu-pín thì
luôn luôn sẵn. (Ở Hoa Kỳ, vô chợ Mỹ thì đôi khi có thể kiếm ra ngầu-pín
gọi là "bull pizzles", còn hòn-dái bò gọi
là "bull fryes", giá rẻ khá hấp dẫn nhưng phải quen mặt và dặn trước).
Ngầu-pín tức là chữ Ngưu-Tiên đọc theo âm Quảng Đông (牛 鞭),
danh từ này còn gọi là Âm-Hành khi nói đến trong sách thuốc ( 陰 莖)
tức chỉ cái chuôi, cái cán , cái chầy (hành) ở chỗ kín như thơ của Hồ
Xuân Hương nói bóng bẩy là cán cân Tạo Hóa trong bài Khóc Ông Phủ
Vĩnh-Tường:
"Cán cân Tạo Hóa rơi đâu mất,
Miệng túi Càn Khôn khép lại rồi."
Theo
sách thuốc "Bản Thảo Cang Mục" của Lý Thời Trân, thức ăn gì cũng là vị
thuốc
cả: lá Sách bò hay Ngưu Bách Diệp trị chứng say rượu, ngầu-pín trị chứng
bạch-đái nơi phụ nữ hiếm muộn, khỏi cần bàn đến cái công hiệu của ngầu
pín, trứng dái và vú sữa nơi nam giới không bổ chiều ngang thì cũng tăng
chiều dọc! “Một cục gân bằng mười cân thuốc
bổ” mà!
Đông
và Tây đã gặp nhau chưa?
Hiện
nay, dân Việt hải ngoại có dịp sống tại Tây phương, đông nhất là tại
Hoa Kỳ nơi
mà không bị nạn “đói thịt” (meat hunger) như phần lớn các quốc gia khác
trên thế giới!. Đây là cơ hội bằng vàng để Đông và Tây gặp gỡ và tìm
hiểu nhau trong sự… ăn, mà điển hình nhứt là qua miếng thịt bò!
Vì
quá quen ăn thịt, dân Mỹ luôn
luôn ngoác miệng ra “Where’s the beef” mà lại đòi hỏi thứ thịt thượng
phẩm (high quality) và lại lười nhai nên cái món hẩu xực của họ là thịt
Bò xay (ground beef), cái món mà dân Giao chỉ VN không thích lắm vì
“Ngon thì ngon gượng kẻo là. Ai tri âm đó, mặn
mà với ai!" [ Miếng thịt Mỹ ăn không được đậm vì không được ướp gia vị
kỹ (marinating) như của Á Đông.
Người
ta nói rằng trong những thế kỷ trước, miếng thịt Âu-châu của hàng quí
tộc
còn quá nhạt, quá hoi nên mới có nhu cầu hàng hải đi về phía Đông để đến
đảo Gia-Vị (Molucca Island)! Người ta lại bảo Kha-Luân-Bố sở dĩ khám
phá ra châu Mỹ cũng vì nuôi mộng đi đến phương Đông bằng hướng
Đại-Tây-Dương để kiếm tiêu, quế, đinh-hương v.v…]
Dân
Âu Tây là con cháu của dân du-mục cổ thời nay đã định cư lập quốc nên
có truyền
thống chăn nuôi gia súc nên thích ăn thịt, bàn ăn dọn ra phải có dao nĩa
để cắt xẻ thịt. Còn dân Á Đông là dân nông nghiệp, trâu bò dùng để cầy
cấy và kéo xe nên thức ăn phần lớn là lúa gạo nông phẩm là chính mà thịt
thì thứ yếu, vì thịt quá quí… Nhu cầu về
đản-chất chỉ cung cấp chính yếu qua cá và những thủy sản hoặc gia cầm
hay chim chóc thú hoang…. Một miếng thịt đâu có dám ăn một mình cả tảng,
cả khối như dân Tây mà phải cắt nhỏ để xào với rau đậu để cả nhà cùng
ăn. Do đó, Á Đông mới dùng đôi đũa để gắp trái
với dao nĩa của Âu Tây. Mà thịt cá cũng không ai ăn một mình một dĩa mà
phải “chém to, kho mặn” để cả nhà cùng chia xẻ để mặn miệng nuốt cơm.
Miếng thịt bò bít-tết là một sự du nhập mới vào Việt Nam vào thời Pháp
thuộc, sang lắm, quí lắm. Nhà văn Vũ-Trọng-Phụng
nếu mỗi ngày ăn được miếng tết bằng hai lóng tay thì chưa đến nỗi chết
sớm vì lao phổi.
Do
truyền thống ăn thịt từ nhiều thế kỷ, miếng thịt của gia súc – điển
hình là thịt
bò ở Âu Mỹ được chia theo cấp độ ngon, dở, mềm, dai của chúng… Thăn lưng
thịt mềm thì mau chín, còn thịt bắp, thịt nạm, sườn vì dai thì ninh nấu
kỹ. Đó là lý đương nhiên như đồ-hình trong Tự-điển Larousse vể những
Thịt đồ-tể (morceaux de boucherie) của con
bò được chia ra nơi nào Miếng chín chóng (morceaux à cuisson rapide),
nơi nào Miếng chín lâu (morceaux à cuisson lent).
Dân
Hoa Kỳ thì vì truyền thống ăn thịt lâu đời nên trong ngành đồ-tể họ
cũng có nhiều
ngữ-vựng chi tiết về sự xẻ thịt như "chuck, rib, loin, round, short
plate, flank, fore flank, brisket" v.v… Thử làm một sự so sánh giữa hai
đồ-hình đồ-tể Việt Nam và Hoa Kỳ lấy thịt bò làm thí dụ thì nếu chúng ta
đừng đi vô chi tiết quá chính xác thì chúng
ta chỉ có thể tìm thấy một sự tương đương đại thể khá tương đối như
"chuck" tương đương với thịt vai, "rib" là sườn, "brisket" là bắp đùi,
"frank" là nạm…
Nhưng quả là có một sự phân chia khá tỉ mỉ khác biệt về những ngữ vựng Mỹ về những
phần thịt nạc ít mỡ gọi là “lean cuts”:
- về miếng Thăn-lưng (loin) thì họ lại chia theo cấp độ như tenderloin, top loin,
sirloin;
-
về miếng Mông (round) thì chia theo cấp độ là round tip, top round, eye
of round,
bottom round v.v…và v.v… mà tôi không biết phải chuyển dịch làm sao cho
sát trong khi ngữ-vựng Việt thì có vài chữ như tấm-tết, đùi bít-tết, lá
cờ, trái thăn, ốc táo v.v…
Dân
Việt Nam có danh từ bít-tết (beefsteak) sau khi tiếp xúc với văn-hóa
ẩm-thực của
Pháp như những chữ bơ, phó-mát, súc-cù-là. Dân Pháp trước đây đi đến đâu
là nhớ nhung và mang cách ăn bít-tết còn máu tươi đỏ lói của họ đến
đấy, đến đỗi họ coi đó là “biểu tượng của uy tín Pháp trên thế giới”
(Symbol of French prestige in the world). Món
bít-tết Châteaubriand được sáng chế do người đầu bếp của ông Nam tước
Francois René Vicomte de Châteaubriand (1768-1848). Thịt bò phải được
cắt thành lát dầy cui từ thăn lưng của bò (beef tenderloin hay “filet").
“Uy
tín của món bít-tết … bắt nguồn từ cái tính chất gần như tươi sống của
nó. Miếng
thịt với máu còn trông rõ tự nhiên, sền sệt, ngồn ngộn và cắt đứt gọn
bằng dao. Ta có thể tưởng tượng rằng“ món trường-sinh bất-lão nhục”
(ambrosia) của các vị thần Hy-Lạp cũng chỉ sánh bằng miếng thịt chắc
nịch này mà thôi ! Khi nhai dưới răng thì thịt từ
từ tan biến và đồng thời khiến ta tự nhiên sâu sắc cảm nhận cái nguồn
mãnh lực độc đáo của nó và cái khả năng tuôn chẩy vào giòng huyết quản
của ta”
Lời
ca tụng trên về món Châteaubriand là của ông Roland Barthes trong cuốn
Mythologies
NY 1971 nói lên rằng cái mềm thượng đỉnh nhất ở chốn trần gian chỉ có
thể so sánh với cái mềm của miếng "beef tender loin" hay cái mềm của môi
phụ nữ mà thôi! Truớc đây, miếng bít-tết của dân Việt mình dù giầu có,
không thể nào sang như vậy, vì đó là món thượng-phẩm.
[Tuy nhiên từ hồi qua Mỹ, ngành chăn nuôi bò của họ quá phát triển nên
có nhiều steak houses nên dân Giao-Chỉ ta cũng phè phỡn hưởng thụ đâu có
kém ai (và bị bệnh Gout – Thống Phong cũng lắm].
Miếng
thịt bò của ta trong các bếp núc thông thường không dám thường xuyên
chọn thứ
thượng-phẩm mà quanh quẩn vào những thứ thịt bò trung-phẩm và hạ phẩm.
Nhưng chính nhờ tinh thần tận dụng, sành ăn và sáng tạo mà ta dọn ra một
tô Phở thập-cẩm gồm đủ chín, tái, gân, gầu, nạm, sách, v.v… vừa thích
khẩu, vừa no, vừa khoan khoái dồi dào bổ dưỡng.
Bí
quyết chọn thịt cho Tô Phở
TÊN VIỆT-TÊN ANH-HÁN VIỆT-HOA NGỮ
Tái, Eye of Round Steak, Sinh Ngưu Nhục, 生 牛 肉
Chín, Well-done Brisket, Thục Ngưu Nhục, 熟 牛 肉
Gầu, Fat Brisket, Võng Du, 網 油
Nạm, Well-done Flank, Thục Nạm, 熟 腩
Vè giòn, Skirt Flank, Sảng thúy ngưu nạm, 爽 臎 牛 腩
Lá Sách, Bible tripe, Bách Diệp, 百 葉
Gân, Tendon, Ngưu Lặc, 牛 肋
Tôi đã sưu tập nhiều thực đơn của các tiệm phở VN tại Mỹ và tôi gia công Hệ-thống
hóa để làm thành một biểu đồ so sánh về từ-ngữ như trên. Bây giờ ta hãy coi cách chọn thịt cho tô Phở ra sao?
Riêng về món Tái tôi có nhận xét sau:
Thịt
bò tái đương nhiên phải chọn nơi mềm nên các tiệm phở Việt đã dùng vùng
thịt
gọi là Đùi Bít-tết (số 8 theo sơ đồ Việt) hay Eye of Round(sơ đồ Mỹ) nằm
chính giữa vùng Round (thịt mông đùi sau hay Ngưu Cổ Nhục) hay Cuisse
(sơ đồ Larousse của Pháp). Đùi này là đùi sau, vì Đùi sau của bò thường
mềm hơn và nhiều thịt hơn đùi trước (Việt
Nam ta có câu: Cho đùi trước, lấy đùi sau!). Gọi là Đùi sau, nhưng đúng
ra phải nói Mông Đùi. Ta cũng nên biết vùng Mông Đùi sau (Round) theo sơ
đồ Mỹ có thể chia thành 4 miếng:
Round tip: nạc và mềm nhất
Top Round: mềm thứ hai
Eye of Round và Bottom Round thì ngang nhau là mềm thứ ba. (Eye là nhãn-điểm hồng-tâm
trên bia bắn)
Tôi
thiết nghĩ Thịt ăn Tái cũng có thể lấy từ “Tấm tết” của sơ đồ Việt,
tương đương
với các vùng thăn lưng (Loin) của bò. Về phần Thăn (Loin), chúng ta thấy
có những danh từ phân biệt như : Loin, tenderloin, short loin, sirloin
theo sơ-đồ Mỹ, khó mà kiếm danh từ Việt tương đương.
Tại
sao các tiệm phở VN lại cắt thịt Tái từ vùng Mông Đùi (Eye of Round) mà
không
lấy từ phần Thăn (Loin)? Tôi thử dọ hỏi với dân hàng Phở thì họ úp mở
nói rằng thớ Thịt của vùng Eye of Round tuy không mềm bằng nơi khác
nhưng “ăn đúng điệu VN” , có thể hơi dai chút đỉnh nên cần nhai dưới
răng lâu lâu để thưởng thức vị ngọt, còn các nơi
thịt khác quá mềm để ăn bít-tết tươi sống thì tuyệt, nhưng xắt cho Phở
Tái vừa đắt, vừa không ngon, lát thịt khi chín thì teo quắt lại. Tra
sách Mỹ, thấy vùng giữa của thịt đùi bít-tết hay Eye of Round không mỡ,
chắc và có thớ sợi li-ti, cần phải lấy nĩa mà
chần cho mềm (fork tendering). Khi xào lúc-lắc thì phải chần cho các thơ
sớ liên kết mềm. Nấu chín bằng hơi nóng ẩm như lối-khìa (braising) cũng
làm thịt mềm hơn (Tuy nói vậy, tôi xin nhường thẩm quyền phán xét cho
các đầu bếp chuyên môn, không dám lạm bàn).
Thịt tái thì thích hợp cho món nhúng, nuớng vỉ thiết-bản) và thịt bò vắt
chanh hay bóp thấu.
Về
tiếng “Nạm” (beef flank) thì tôi thấy đây là một vùng thịt bò có thơ sớ
đặc biệt
lớn trong bát Phở, nhưng viết theo Chữ Nho thì theo Tự-điển Thiều-Chửu,
chữ Nạm (quen dùng viết trên thực đơn Phở VN) có nghĩa là “thịt trâu
non”. Nạm và gân và bạc-nhạc vốn thích hợp cho món Bò kho…
Trên
thực-đơn, “chín” dịch là “thục” , nhưng “tái” dịch là “sanh” nghĩa là
sống, kỳ
thực phải dịch sát từ ngữ là “bán sanh bán thục” (Nhưng trên thực tế,
tôi thấy các tiệm phở xắt thịt tươi sống thật mỏng rồi trải trên mặt tô
phở nên dịch là “sanh” là đúng!)
Chữ “giòn” thì Hoa-ngữ dịch là “sảng thúy” (âm Quảng Đông: xoỏng xui – âm “xoỏng”
nghe cũng rổn rảng lắm đấy, âm "xui" thì nghe như xừn-xựt như lúc nhai lá Sách bò thật vui tai đáo để).
Một
thắc mắc của tôi khi coi Sơ-đồ thịt Bò của bà Triệu thị Chơi có mấy chữ
sau: Trái
thăn, Lá cờ thì không biết tương đương với tiếng Mỹ là gì: Loin hay
Tenderloin? Còn chữ “Ốc Táo” có phải là vùng quanh cái Rốn (navel) của
bò không?
Sự
tra cứu lẩn thẩn của tôi về những miếng thịt bò rất cần quí vị cao minh
chỉ giáo,
nhất là quí vị từng quan sát thực tế trong ngành nấu bếp, ngành thú Y,
ngành Súc khoa v.v… Như vây thì bổ ích cho kho Ngữ-vựng Việt Nam và
Văn-hóa Việt-Nam nhường bao!
Từ
một câu thơ năm xưa của thi sĩ Thanh-Tịnh tôi đã miên man lôi kéo quí
bạn trên
nhiều chuyện từ chuyện nhai lại của loài trâu bò qua chuyện tìm hiểu
những lát thịt bò trên tô phở VN v.v… Đa ngôn, đa quá, càng nói nhiều
thì càng lỗi lầm… Thôi đến đây, tôi đành chấm dứt bài Bút-khảo thập cẩm
“chín, tái, nạm, gân, giòn, gân, sách” kẻo quí
bạn lại quở là nói : Dài, Dai, Dở và Dốt!
Một
chút Thơ thay Lời kết !
Mở
bài tôi có một bài thơ làm duyên-khởi thì đóng bài tôi cũng mạo muội
làm một bài
Thơ tổng kết hay gói ghém. Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Hãy
cười cho vui vẻ cuộc đời và tươi mát tâm hồn chứ, phải không bạn?
Phở
Phượng-Cầu-Hoàng
Phở em: Phở Phượng Cầu Hoàng
Tỉ tê giới thiệu xem chàng chịu không?
Miếng Tái vốn thiệt Thịt Mông (Round)
Tươi… mềm… mát miệng khiến lòng yêu nhau!
Gầu giòn… Nạm béo… nhai lâu
Vốn từ lườn Ngực (Flank) Phượng cầu duyên loan
Lá sách từ Bụng em ngoan
Vừa trắng, vừa mịn nhai giòn dưới răng!
Miếng gân ăn dẻo thêm hăng
Lại thêm Ngầu-pín hỏi rằng đã chưa?
Miếng Chín ai cũng khen ưa,
Đậm đà hương-liệu, nêm vừa miệng xơi.
Hỡi chàng quân-tử… cưng ơi!
Nếm thử vú sữa.... em mời dâng cho
Ớt, tiêu, giá sống thêm vô
Hành trần, nước béo, lá ngò tự nhiên!
Phở ngon dọn cốt làm duyên
Nếu chàng thỏa mãn, em nguyền sánh đôi.
Tac gia LÊ VĂN LÂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét