Zac Herman
Tác phẩm văn học song ngữ là phân khúc khiêm tốn nhất trong thị
trường sách Việt Nam. Dù văn nhân Việt trong quá khứ có truyền thống sử
dụng đồng thời hai văn tự Hán, Nôm – và thêm văn tự thứ ba ‘quốc ngữ
la-tinh’ từ cuối thế kỷ 18 – nhưng hiện nay sáng tác song ngữ là công
việc không tưởng ở Việt Nam, có chăng chỉ là hiện tượng lẻ loi.
Từ lâu trên thế giới đã vang dội những cái tên sáng tác bằng ngôn ngữ ngoài tiếng mẹ như Vladimir Nabokov (Nga) Joseph Conrad (Ba Lan), André Brink (Nam Phi), Elif Safak (Thổ) Jack Kerouac (Pháp-Canada) Samuel Beckett (Ai-len), Agota Kristof (Hungary) Rolando Hinojosa-Smith (Mỹ), Anna-Kazumi Stahl (Mỹ-Nhật)… Ngôn ngữ thứ hai họ sử dụng là những ngôn ngữ phổ biến nhất trên trái đất: Anh, Pháp và Tây Ban Nha.
Trong bối cảnh như vậy càng thấy rõ Zac Herman là trường hợp khác, cá biệt, thậm chí chưa từng có trước đây: một nhà văn người Mỹ viết truyện, làm thơ song ngữ, mà ngôn ngữ thứ hai là tiếng Việt, đăng trên báo Việt (Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Lao Động), xuất bản tại các nhà xuất bản Việt Nam.
Zac hướng đến tiếng Việt trong môi trường văn chương. Nhìn vào mối quan tâm và hoạt động của anh đối với tiếng Việt chắc nhiều người Việt sẽ thấy quý mến anh và không khỏi băn khoăn về bản thân: Dịch 10/16 truyện ngắn trong tập The Dusk Wolf/ Sói Hoàng Hôn của Vĩnh Quyền (NXN Hội Nhà văn, 2015) – sáng tác tập truyện song ngữ Who Can Fly?/ Ai Biết Bay? (NXN Hội Nhà văn, 2016) – ba năm đọc và dịch bộ truyện cổ Việt Nam sang tiếng Anh (NXB Thế Giới, tập I, 2017) – gần bốn năm đọc và dịch Thi Nhân Việt Nam, công trình nghiên cứu-phê bình xuất sắc của Hoài Thanh-Hoài Chân xuất bản từ 1942 – sáng tác tập thơ song ngữ Dragon Beach/ Bãi Biển Rồng (NXB Hội Nhà văn, 2017) – đang nghĩ đến việc đọc tiếng Việt cổ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và dịch sang tiếng Anh…
Đôi khi tôi không biết rồi Zac sẽ chuyên tâm dịch văn học Việt-Anh hay sáng tác song ngữ Anh-Việt, hoặc song song. Nhưng tôi biết chắc một điều: những gì Zac dành cho tiếng Việt khởi từ tình yêu và niềm vui sáng tạo.
Thơ giới thiệu trong tập Bãi Biển Rồng được sáng tác những năm gần đây, là những năm Zac Herman chọn Việt Nam làm nơi sống và yêu thương. Chúng đứng cạnh nhau mà khác đến mức đối lập về cấu tứ cũng như hình thức thơ.
Đôi khi giản dị như ghi chép một mẩu chuyện ngày thường gặp tình cờ trên đường phố.
Người bán vé số, bố trẻ
Có con gái nhỏ hơn tuổi.
Bố đưa xấp vé số
Thả bé yêu như cún
Vào quán cà phê ngoài trời.
…
Bé ngây thơ đến bên khách
Lẽ tự nhiên, khách mua vé
(Người bán vé số)
Đôi khi như tường thuật một chuyến đi đáng nhớ với những con người cụ thể trong không gian thời gian cụ thể.
Bắt xe đi Ninh Bình; bầu trời mù xám
Thuyền chèo lắc lư, trôi vào động Tam Cốc
Chùa Bái Đính khôi nguyên, Hoa Lư đổ nát
Cúc Phương lặng xanh. Quay về phố lạnh
Ăn tôm và dứa, uống trà gừng nóng
Cà phê ngoài trời. Cô chủ lúc đầu e dè
Mở lòng ra khi tôi nói tiếng Việt
(Một chuyến đi, một bạn cũ)
Và nếu ta chưa biết nhà thơ người Mỹ đã và đang dành nhiều thời gian đọc Thơ mới Việt Nam (1932-1945) hẳn sẽ ngỡ ngàng khi gặp dòng ghi chú phong cách ‘cổ điển’ ngay dưới tựa đề bài thơ trên.
Cảm hứng bài Gửi Trương Tửu của Nguyễn Vỹ.
Thậm chí trong Bãi Biển Rồng ta còn gặp Zac Herman như một trong những kẻ hát đồng dao cuối cùng với cái nhìn trẻ thơ trong veo và nhân ái trước thế giới chung quanh.
Voi sở thú
Già cằn cỗi
Da khô nẻ
Bụi phủ đầy
Gầy trơ xương
(Voi sở thú)
Thật ra cái mà ta thoáng tưởng gần gũi, thậm chí ‘cổ điển’ kia là một trong hình thức mở của thơ hiện đại, hướng đến nghệ thuật tối giản. Cảm giác đó càng rõ khi đọc những bài thơ không có câu chuyện nào của Zac.
Một giọng nói
Đầy căn phòng
Không biết chắc
Có hay không
(Giọng nói)
Không bất kỳ không gian, thời gian.
Một nơi nào không tên
Không thể gọi tên, tồn tại
Trong đầu
(Trong đầu)
Nhân vật ngôi thứ nhất cũng không hẳn là cái tôi tác giả.
Một giọng nói
Đầy căn phòng
Tôi biến mất
Có đôi lần
Tôi là tường
Có đôi lần
Tôi khoảng không
(Giọng nói)
Thơ Zac thuần túy sinh ra từ suy tư hay cảm giác.
Ngón tay vô dụng
Cảm giác
Không còn liên lạc
Bàn tay bẻ vụn
Những thỏi đất
(Quay về)
Từ cơn mê sảng.
Mê sảng trên sàn tôi tự hỏi
Cơ may nào tôi hiện hữu lúc này
(Bóng ma)
Và cả từ nỗi ám ảnh cái chết.
Người ta sẽ đến mang ghế đi
Buông rèm, lần nữa phòng lại tối
Mấy trang ghi chép, xâu chìa khóa
Và ví da sờn trên bàn viết
Là những gì còn lại của tôi
(Còn lại)
Có thể nhận ra thơ Zac hầu hết là kết quả của quá trình khép kín giữa quan sát suy ngẫm – thăng hoa cảm xúc – và hội nhập chủ thể với khách thể. Nhà thơ được đánh thức bởi khoảnh khắc diệu kỳ, hoặc đắm chìm vào chi tiết nhỏ nhặt, quen thuộc đến mức ta thường trượt qua trong đời sống. Chẳng hạn ba ô cửa sổ trên bờ tường một ngôi nhà cao tầng.
Ba ô cửa trên góc tường
Vài chậu kiểng héo tô điểm
Bồ câu trắng, hồng bay đến
Tìm chỗ trú vào ban mai
Rồi đến một lúc chính người quan sát-nhà thơ biến thành ô cửa thứ tư trong toàn cảnh.
Ba ô cửa trên góc tường
Từ ô cửa nhà tôi ngắm
(Ba ô cửa)
Thơ Zac lắm khi như lạc vào cõi giới tịch mịch Đông phương, cả tứ lẫn lời, nhưng cuối cùng vẫn là một căn cước thơ hiện đại Mỹ, khác chăng là một người Mỹ tha hương – American expatriate, rong ruổi khám phá cái tôi trong một nền văn hóa dị biệt. Và ta lạnh người khi nhà thơ dự cảm nơi ban đầu chọn làm điểm dừng sẽ là miền an nghỉ vĩnh cửu.
Trên bãi biển rồng, tôi cắm trại
Tự nhủ ‘từ hôm nay
Mình sống giữa các con rồng’
…
Lặng yên, trong những hàm rồng, lìa đời
(Bãi biển rồng)
Lựa chọn này không là thoáng chốc mà được nuôi dưỡng, lớn dần một quyết định, bình thản và giản dị dẫu vẫn có nước mắt trong lòng kẻ đốt thuyền, ở lại.
Giản dị. Như tôi đã muốn
Phải nhắc mình khi đứng dậy bước đi
Rằng tôi chẳng thể rời xa bãi biển
Là điều tôi biết
Từ khi đốt thuyền
Và khóc thầm lặng
(Giản dị)
Một lựa chọn vừa hạnh phúc vừa mất mát hệ quả như vậy hẳn lời nói ngày thường sẽ không diễn đủ, nên phải nương đến đôi cánh mỏng của thơ. Nhưng nếu thơ cũng bất lực, thì sao hở Zac?
Bản Anh ngữ
When I burned the boat
VINH QUYEN
Works of bilingual literature comprise the smallest share of the Vietnamese book market. While scholars of the past had a tradition of using both Chinese and Nôm scripts – including the romanized ‘national script’ since the late 18th century – presently, however, bilingual creation is not being considered in Vietnam, or at most, it is a solitary phenomenon.
For long, we have been familiar with writers who create in a language not their first. These include Vladimir Nabokov (Russia) Joseph Conrad (Poland), André Brink (S. Africa), Elif Safak (Turkey) Jack Kerouac (Canada) Samuel Beckett (Ireland), Agota Kristof (Hungary), Rolando Hinojosa-Smith (U.S.), Anna-Kazumi Stahl (U.S.-Japan). The languages they use are some of the most popular on earth: English, French and Spanish.
In this context, it is even more clear that Zac Herman is different, particular, even unprecedented: an American writer who creates bilingual stories and poems in his second language of Vietnamese, published by Vietnamese newspapers (Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Lao Động) and publishing houses.
Examining Zac’s focus and actions, surely this country’s speakers will both appreciate and be surprised by him: Co-translator of the short story collection The Dusk Wolf – Sói Hoàng Hôn by Vĩnh Quyền (Writers Assoc. Pub., 2015); Translator of The Moon Bamboo and Other Stories: Vietnamese Tales and Legends, Vol. 1 (World Pub., 2017); author of the bilingual collection Who Can Fly? – Ai Biết Bay? (Writers Assoc. Pub., 2016); and now author of this short bilingual poetry collection. I do not know whether Zac plans to devote himself to literary translation, bilingual writing, or both at the same time. However, of this I am sure: That which Zac reserves for the Vietnamese language comes from a love and a joy to create.
The poems contained in Dragon Beach were written in the years following Zac’s decision to make Vietnam the land where he would live and love. They stand beside one another, and yet are different to the point of contrary in terms of idea and structure.
At times they are simple like notes describing an everyday scene come across on the street.
The lottery man is a young father,
Daughter smaller than her age.
He hands her a booklet of tickets
Releasing her lovingly, like a puppy,
Into the open air café.
…
The girl glides naively among patrons
Naturally, the tickets are bought
(The lottery man)
At times they recount memories shared with real people in concrete time and space.
Took a car to Ninh Binh; the sky misty grey
The rowboat swayed, slipping beneath Tam Coc caves
Bai Dinh Pagoda, grand and pristine, Hoa Lu decayed,
Cuc Phuong silent and green. In town we ate
Fresh shrimp and pineapple, hot ginger tea
At an outdoor café. The owner, at first reserved,
Opened up when I spoke Vietnamese
(A trip, an old friend)
And if we did not know this American poet read extensively Vietnamese New Poetry (1932-1945), we might be puzzled to see this classical-style dedication beneath the title of the aforementioned poem.
Inspired by For Trương Tửu by Nguyễn Vỹ.
In Dragon Beach we even meet Zac Herman as one of the last Đồng dao artists (The Vietnamese oral tradition of children’s poems and songs since long ago), with the pure and compassionate eyes of a child before the world around him.
Elephant in the zoo
Old and thin
Sun chapped and
Dust covered skin
Revealing rib bones.
(Elephant in the zoo)
But in fact, that which could for a moment be seen as familiar, even classical, is rather of the open form found in modern poetry, approaching reductivism. This sense is most apparent in poems altogether absent of a narrative.
A voice
Fills the room
Without certainty
Whether or not
…
I’ll hear it again
(A voice)
And without time or space.
Somewhere nameless
That cannot be named, it exists
In my head
(In my head)
The central character is not always completely the author.
A voice
Fills the room
I disappear
At times
I am the walls
At times
I am the air.
(A voice)
Zac’s poems are born purely from meditation, from feeling;
Loss of fingers,
Feeling
Loss of touch.
Hands crumble,
Earthen clods.
(Return)
From delirium;
And I wonder, delirious on the floor
Whether there is a chance I am real now
(Ghost)
And from an obsession with death.
Someone will come and take out the chair
Close the curtain making the room dark again
A few handwritten notes, ring of keys,
And an old wallet on the table is
What’s left of me
(What’s left)
It can be said that Zac’s poems are the result of a self-contained process between thoughtful observation, emotional sublimation, and integration of subject and object. The poet is awakened by (and subsequently immersed in) what are to him marvelous moments, and what may be to us details overlooked in everyday life. Take, for instance, three windows on the wall of a building.
Three windows on the corner
Wilted potted plants adorn them
White and rose doves swarm in
Finding shelter in the morning.
Until the time comes when the observer-poet himself becomes the fourth window of the scene.
Three windows on the corner
From my own window, adore them
(Three windows)
Zac’s poems often wander in the peaceful world of the East, both by ideas and language, though in the end they still identify as modern American, despite the fact this uprooted expatriate is on a journey to explore the self in a foreign culture. And then, a startling moment when the poet predicts that the first stop on this journey is also the place he will be laid to rest.
On Dragon Beach I staked my tent
And told myself, “From today
You live among the dragons”
…
Quietly, cradled in their jaws, I died
(Dragon Beach)
The choice is not an impulsive one, but has been nurtured and raised into a cool and simple resolve, though not without tears for this burner of boats.
Simple. Like I wanted to be
I reminded myself as I stood up to go
Since I could no longer exit the beach
I had made sure of that
When I burned the boat
And wept quietly.
(Simple)
A choice both of happiness and of loss. Such a consequence surely cannot be fully expressed in normal words, so we must rely on those of poetry. But, if poetry also fails us, what then, Zac?
_________
THREE POEMS FROM
DRAGON BEACH
On Dragon Beach I staked my tent
And told myself, ‘From today
You live among the dragons.’
The dragons slept beneath the sand
During the day.
At night, when it was cool–
When it was calm, they would appear.
‘Are you not scared?’ They said to me,
Gathered round my tent. They breathed
Heavy bellowed breaths that kept me warm;
I answered softly, almost like a sigh.
Quietly, cradled in their jaws, I died.
BÃI BIỂN RỒNG
Trên bãi biển rồng, tôi cắm trại
Tự nhủ ‘từ hôm nay
Mình sống giữa các con rồng’.
Rồng ngủ ở dưới cát
Vào ban ngày.
Đêm, khi trời dịu mát –
Khi trời êm đềm, chúng hiện ra.
‘Mày không sợ bọn tao sao?’ Chúng nói,
Xúm quanh lều, chúng thở
Hơi thở gầm gừ sưởi ấm người tôi;
Tôi trả lời khẽ như một thở dài.
Lặng yên, trong những hàm rồng, lìa đời.
CÒN LẠI
Chiều muộn ngày nắng hanh tháng Sáu
Đong đưa vàng hoa thêu mẫu đơn
Tán cọ bồng lên cơn gió cuốn
Sàn trống, ghế anh đào ngập sáng
Tầng hai biệt thự một thư phòng.
Tôi đã rời đi trong phút giây
Áo choàng lưng ghế vẫn còn đấy
Như thể một mai tôi sẽ về.
Người ta sẽ đến mang ghế đi,
Buông rèm, lần nữa phòng lại tối
Mấy trang ghi chép, xâu chìa khóa
Ví da đã cũ để trên bàn
Chỉ có thế còn lại của tôi.
WHAT’S LEFT
The late afternoon on a sunny June day
Sways in the embroidered gold peonies
A gust heaves the palm canopy
Light floods the bare floor and cherrywood chair
In the second floor workspace of the villa.
I am gone from the chair, gone recently
Since the striped collared shirt is
Still draped on its back, as if I’d return.
Someone will come and take out the chair,
Close the curtain making the room dark again
A few handwritten notes, ring of keys,
And an old wallet on the table is
What’s left of me.
SIMPLE
Simple. Gulls dart over cold land
Where I slept last night
Beyond the reach of the sea
A touch I sought in the dark
Sand between my teeth
I drank a palm of salt water
Swallowed it gratefully.
Simple. Like I wanted to be
I reminded myself as I stood up to go
Since I could no longer exit the beach
I had made sure of that
When I burned the boat
And wept quietly.
GIẢN DỊ
Giản dị. Hải âu bay vút miền lạnh
Nơi tôi ngủ đêm qua
Ngoài tầm đầu ngọn triều
Chờ cái chạm của biển
Hạt cát trôi vào miệng
Vốc nước mặn, uống
Với lòng biết ơn.
Giản dị. Như tôi đã muốn
Phải nhắc mình khi đứng dậy bước đi
Rằng tôi chẳng thể rời xa bãi biển
Là điều tôi biết
Từ khi đốt thuyền
Và khóc thầm lặng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét