1. Pê đê (pédéraste) là gì?
Pédéraste /pedeʀast/ (n) là một từ gốc Pháp, chỉ những người đàn ông có hành vi tình dục với trẻ em nam (Tra cứu trên Cambridge Dictionary). Xuất phát điểm của từ này mang ý nghĩa kỳ thị. Đầu thế kỷ 20, người Pháp đã bắt đầu sử dụng pédéraste để chỉ những người đồng tính. Ở Việt Nam, pê đê (hay bê đê) thường mang nghĩa miệt thị, chỉ những người đàn ông đồng tính hoặc có tính nữ. Phong trào này được tôn trọng và sinh hoạt mạnh nhất ở San Francisco (Cali-Hoa Kỳ).
2-
Ô môi;
“Ô môi” là tiếng lóng được dùng cho người đồng tính phái nữ. Từ này được cho là bắt nguồn từ tên một loại hoa quả nhiệt đới ở Việt Nam.
Gina Masequesmay (2003) lý giải rằng hình ảnh ăn quả ô môi gợi liên tưởng đến quan hệ tình dục bằng miệng với bộ phận/vùng sinh dục nữ (cunnilingus). Một luồng quan điểm khác cho rằng từ này không liên quan đến tên loại hoa quả trên, mà lại là cách nói rút gọn của từ “homosexuelle” trong tiếng Pháp. Dù nguồn gốc truy nguyên của từ này ra sao, nó đã đi cùng cộng đồng hải ngoại và sau đó trở thành tên của một nhóm thiểu số ủng hộ người đồng tính nữ, song tính và người chuyển giới nam tại Nam California.
3-Ô sin:(bắt nguồn từ tiếng Nhật: おしん) là một danh từ tiếng Việt dùng để chỉ:
Người giúp việc, tức những người được các gia đình hay cá nhân thuê để làm việc nhà.
Oshin, tên một bộ phim truyền hình nhiều tập của Nhật Bản được trình chiếu từ 4 tháng 4 năm 1983 đến 31 tháng 3 năm 1984
4- Nguồn gốc của tục lệ lì xì mừng tuổi đầu năm mới:
Lì xì là một tên gọi của tục lệ trong dịp Tết Nguyên đán ở các nước Á Đông và Việt Nam, đó là lệ đặt tiền vào chiếc phong bì nhỏ có trang trí màu vàng son rực rỡ để mừng tuổi trẻ em.
Tục lệ lì xì đầu năm mới đã có từ thời xa xưa, xuất xứ từ Trung Quốc. Tương truyền, có một con yêu quái chuyên xuất hiện vào đêm giao thừa, thích xoa đầu những đứa trẻ đang ngủ ngon giấc làm chúng bị sốt cao hoặc trở nên ngớ ngẩn. Vì thế những gia đình có con nhỏ phải thức cả đêm để canh không cho yêu quái làm hại con mình.
Một lần, 8 vị tiên đi ngang thấy vậy liền hóa thành những đồng tiền nằm bên chỗ mấy đứa trẻ, cha mẹ chúng cũng đem gói những đồng tiền này vào tấm vải đỏ để xua đuổi yêu quái. Không ngờ phép lạ ấy lại thật sự hữu dụng. Khi con quái vật đến, những đồng tiền lóe lên khiến nó sợ phải bỏ chạy.
Câu chuyện này nhanh chóng lan truyền khắp nhân gian. Từ đó, mỗi lần Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những cái túi màu đỏ tặng trẻ con, để trẻ chóng lớn và khỏe mạnh và hành động đó chính là lì xì, hay còn gọi là mừng tuổi đầu năm mới.
5- Chữ Chệt:
Người Việt Nam ta thường kêu người
Trung Hoa bằng người Tàu, người
Hoa, Khách Trú, lại cũng kêu bằng Khách ngô, Các chú; – những danh từ
ấy đều có lai lịch, đều có thể cắt nghĩa cho thông được. Duy có tiếng “Chệt” hay “Chiệt”
– ngoài Bắc nói Chiệc – người
mình cũng có dùng mà kêu họ nữa, tiếng nầy thì chẳng
biết từ đâu ra, có nghĩa chi?
Có người nói rằng
chữ Chệt hay Chiệt đó có lẽ do chữ
Chiết mà ra. Bên Tàu có tỉnh Chiết
Giang, từ xưa người tỉnh ấy hay
sang xứ ta, nên ta kêu người Chiết mà
trại ra thành Chiệt hay Chệt.
Đó là nói ước chừng,
chẳng có dựa vào bằng
chứng đâu cả. Mà cứ
theo sự thiệt lại
không đúng. Vì tỉnh Chiết Giang ở
gần Thượng Hải, về miền bắc Trung Hoa, người tỉnh ấy ít có qua xứ
ta lắm; người Tàu sang xứ
ta nhiều nhứt là người
hai tỉnh Quảng Đông và Phước Kiến, vậy nếu ta
có lấy tên tỉnh mà kêu chung người Trung Hoa thì sao không lấy
tên hai tỉnh nầy mà lại lấy tên Chiết
Giang?
Ngoài cái thuyết ước chừng mà không có thể nghe được ấy, chưa thấy ai giải
thêm một nghĩa nào khác.
Ta đọc bộ sách
Đông Dương sử, thấy có
một chỗ nói về cái tên người Tây dùng mà kêu người Tàu đời
xưa, thì chúng tôi sực nhớ lại chữ “Chệt” hay chữ
“Chiệt” ấy, dường
như hai đằng có quan hệ
với nhau thì phải. Chúng tôi xin viết ra đây cho nhà sử học dựa đó
mà nghiên cứu, nếu thấy lời chúng tôi có ít nhiều giá trị.
Chúng tôi phỏng định rằng tiếng
“Chệt” hay “Chiệt” ấy là
do tiếng Tây mà ra. Nói rằng “tiếng
Tây” là chỉ về tiếng của một nước trong cõi Âu châu, không biết rõ nước
nào, có lẽ là nước La Mã.
Sách Đông Dương sử nói
rằng: Về thời đại đế quốc La Mã thì những hàng tơ lụa Trung Hoa, đã đem bán bên Âu châu. Người Tây kêu thứ
hàng tơ lụa ấy bằng “Serge“; nhân đó, họ kêu đất
Trung Hoa là “Serica” và người Trung
Hoa là “Seres.“
Trong chữ “Serge” đó, phần nửa trên (ser là do chữ “tăng nhi” ( 繒 兒 ) của Tàu
mà ra; phần nửa dưới
(ge) là cái ngữ vĩ (terminaison) của Tây thêm vào. Còn “Serica” nghĩa là xứ đất sinh
sản ra thứ “ser” ấy. Đọc trệ âm “ser” sang
Chệt.
6- Ba Tàu: Ngược dòng lịch
sử, vụ án được đề cập diễn ra vào mùa hè năm 1851, khi vua Tự Đức đọc được tờ tấu do Bộ binh chuyển
lên báo Chưởng vệ Phạm
Xích, Lang Trung Tôn Thất Thiều tâu trình đã đánh đuổi ba chiếc
tàu hải tặc ở vùng
biển Quảng Nam - Quảng Ngãi.
Theo lời tâu trình, quan binh đã bắn chìm một
tàu giặc, một tàu bị
quan binh áp sát, giết được rất nhiều hải tặc, thu tàu giải
về neo tại vụng
Chiêm Dữ, tàu còn lại bỏ chạy về phía
Đông, xin báo công để triều đình ban thưởng.
Vua Tự Đức xem
xong tờ tâu liền sinh nghi vì đánh nhau với hải tặc mà lính không ai bị thương tích, còn phía bên
kia thì chết sạch không một
người bị bắt làm tù binh. Vụ việc
nghiêm trọng nên vua Tự Đức nhấc bút châu phê: “Giao qua Bộ Binh điều
tra cho rõ sự tình”.
Phúc trình từ Bộ binh
cho rằng chiếc tàu thu được
giống tàu đi buôn hơn là tàu giặc.
Ngay lúc ấy, một phụ nữ đến nha
môn xin cáo giác. Nguyên bà là Hoa kiều,
làm nghề tiệm ăn ở phố Gia Hội,
thấy chồng cũng là Hoa kiều về nước bặt tin đã lâu.
Theo lời bà kể,
khi viên đội trưởng trong vệ
Tuyển Phong tên Trần Hựu ăn uống ở quán
bà nhưng không đủ tiền trả nên rút chiếc
nhẫn cầm tạm. Bà chủ xem kỹ nhận ra chiếc
nhẫn bảo vật của chồng liền vặn hỏi. Trần Hựu lúc đầu
tìm cách chối, sau chịu theo bà đến
nha môn trình việc.
Trần Hựu khai rằng ngày 17/6/1851, thuyền quan đậu
ở cửa Thi Nại, được tin có ba chiếc thuyền lạ đậu ngoài
hải phận đảo Thanh Dư. Chưởng vệ Phạm Xích
và Thi lang Tôn Thất Thiều lập tức đuổi
theo bắn và áp sát để bắt.
Mặc dù đã trình thẻ nhà buôn nhưng 108 người
Hoa trên tàu bắt được đều bị chém chết
rồi đem quăng xuống biển mất xác. Toàn bộ
hàng hóa trên chiếc tàu buôn của người
Hoa được chuyển sang chiếc
Bằng Đoàn của quan binh rồi
chiếc thuyền buôn được
sơn lại toàn màu đen để trông như tàu hải tặc và dẫn về vụng
Chiêm Dữ.
Từ lời kêu oan của bà chủ
quán ở phố Gia Hội,
quan Thượng thư Bộ binh gọi thêm nhân chứng điều tra, làm tờ tâu rằng
bọn Xích giết càn và mạo
xưng công lại.
Vua Tự Đức thịnh nộ, phê
giao Ty tam pháp xét xử. Thiều và Xích chủ
mưu đều bị xử tội lăng
trì. Dương Cù đồng lõa bị
xử chém. Trần Hựu do
khai báo thành khẩn khi chưa tra khảo
nên được tha. Bản án dâng lên, vua Tự Đức châu phê chuẩn ngay, còn xuống chỉ truy thu tang vật trả lại thân nhân những người bị hại.
Hơn 3 thập niên sau, vào năm
1887, bang hội người đảo Hải Nam xin triều
đình cho xây ở Huế miếu
Chiêu Ứng Từ để thờ những người đã chết
trong vụ án. Ban đầu miếu có quy
mô nhỏ, đến năm 1908 được
xây dựng lại như ngày
nay. Có lẽ vậy mà khi nói về người Hoa ở Việt nam,
người ta dùng từ Ba Tàu.
7- Cà chớn:
“Trèo
lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái
nụ tầm xuân”.
Nào là cà độc dược, cà chua, cà pháo, cà tiêu, cà cuống, cà lăm, cà kê, cà khẳng, cà khêu, cà khịa, cà mèn, cà nhắc, cà nhom, cà niễng, cà phê, cà rà, cà rá, cà riềng, cà rỡn, cà sa, cà tăng, cà tửng, cà xốc. Lạ quá không thấy “cà chớn” ghi trong tự điển.
“Cà chớn” là tiếng lóng ở miền nam, người Trung, người Nam nào cũng hiểu “cà chớn” là gì, nhưng người Bắc (75) thì không biết từ này. Theo các nhà ngôn ngữ học, từ “cà chớn” bắt nguồn từ tiếng Miên “Kchol”, người Việt phát âm “Cà chon”, đọc trại thành “Cà chớn”, có nghĩa là không đáng tin lắm từ lời nói đến hành động.
Nói ai cà chớn là có ý chê, nhưng cũng không có nghĩa là hoàn toàn xấu. Chẳng hạn “Chờ tới giờ này mà nó chưa đến, đồ thứ cà chớn”, hay “chiếc xe hôm nay cà chớn, đạp máy hoài mà không chịu nổ”. Tuy nhiên, có thể nặng “Có tới bằng cấp đó, chức vụ đó mà ăn nói lý luận cà chớn quá”.
Vì gốc tiếng Miên, nên chỉ có dân Đàng Trong từ thời Chúa Nguyễn biết từ này, còn người Đàng Ngoài của chúa Trịnh tuyệt nhiên không biết. Từ này nhẹ hơn từ “cà tửng”, có nghĩa gần như điên như khùng, thần kinh bị “mát”.
Hai từ “Cà Chớn” rất phổ biến ở miền nam trước 75. Mặc dầu bắt đầu bằng chữ “Cà” nhưng không có nghĩa là thực phẩm dùng để ăn như Cà chua, Cà pháo, Cà tô mát v.v… và cũng không có ý nghĩa là khuyết tật như Cà Lăm!
Cà chớn khó định nghĩa như thế nào cho chính xác. Cà chớn không hề có nghĩa là láo lếu, cũng không có ý nghĩa là xấu xa, nhảm nhí. Thí dụ bạn hẹn một người bạn đi uống cà phê, nhưng anh ta đến muộn, bạn phán là “thằng cà chớn”. Vậy không có nghĩa là anh bạn kia là một người bạn xấu.
Hoặc bạn nghe một người bạn nào đó đùa dai một câu như “trông cô gái kia phốp pháp, có vẻ hạp với ông đấy”. Bạn chỉ có thể kết tội anh ta là cà chớn chứ không thể cho là anh ta nói láo.
Đôi khi nó có nghĩa là xấu, đôi khi nó có nghĩa là vui đùa, đôi khi nó có nghĩa là không tốt, không xấu nữa. Thí dụ, bạn nói về một người bạn rằng: “Thằng ấy nó cà chớn thế thôi chứ không xấu bụng đâu”. Vậy cà chớn là không tốt cũng không xấu.
Xem ra hai tiếng “cà chớn” này rất khó dịch sang tiếng ngoại quốc.
8- Tà Mun:
Có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu nguồn gốc một dân Thiểu số gọi là Tà Mun (dân thiểu số thứ 55 tại Việt nam). Đông nhất là vùng Tây ninh.
Lật lại tư liệu, câu hỏi “có hay không tộc người Tà Mun?” Từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu cất công tìm câu trả lời. Trước năm 1975, Viện Viễn Đông bác cổ (EFEO) của Pháp đã từng liên hệ với chính quyền Sài Gòn để nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc Tà Mun. Tuy nhiên, tác giả của công trình khoa học này đã qua đời khi đang nghiên cứu dang dở và không còn được lưu trữ trong văn khố của chính quyền cũ.
Ông Võ Hòa Minh - chánh văn phòng Sở Văn hóa - thể thao và du lịch Tây Ninh, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu thành phần dân tộc Tà Mun - cho biết hiện đang tìm kiếm lại công trình nghiên cứu dang dở này nhưng chưa tìm thấy.
Sau đó vào đầu thập niên 1980, nhà Ngôn ngữ học người Mỹ D.Thomas và năm 1990 Tiến sĩ M.V.Kriukov (người Nga) cùng GS Trần Tất Chủng cũng đã có hai công trình nghiên cứu về nguồn gốc tộc người Tà Mun. Cả hai công trình này đều khẳng định: người Tà Mun không có mối quan hệ với người S’Tiêng như nhiều tài liệu suy đoán sai lầm..
D.Thomas cho rằng người Tà Mun là một nhánh, có họ hàng với người Châu Ro được người Pháp đưa từ lưu vực sông Đồng Nai qua thượng nguồn sông Bé sinh sống từ đầu thế kỷ 20. Còn GS.TS M.V.Kriukov và GS Trần Tất Chủng trong công trình đăng trên tạp chí Dân Tộc Học số 2 năm 1990 cho rằng: Người Tà Mun đã bị mất mối liên hệ cộng đồng với tộc gốc của mình và trong quá trình di cư đã chịu ảnh hưởng của người Khmer, để nhiều người cho họ là dân tộc Khmer (Miên).
Các công trình nghiên cứu sau
đó về lễ hội, địa chí, âm nhạc dân
gian của ngành văn hóa hai tỉnh Tây Ninh và Bình Phước
cũng khẳng định phong tục tập
quán, âm nhạc và đặc biệt là ngôn ngữ của người Tà
Mun có nhiều khác biệt với người S’Tiêng. Một số điểm tương đồng với người Khmer xuất
hiện sau này là do quá trình cộng cư tạo nên.
Tài liệu do Hồ Xưa sưu tầm từ nhiều nguồn, trình bày và phổ biến_________
Thêm : Ý kiếm Mai Xuân Thanh
Bài viết thật hay
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét