Rồng (con vật từ trí tưởng tượng của phương Đông) có liên quan mật thiết
đến thiên tượng và thời tiết. Vì vậy, trong những năm Thìn thường có
bão tố và lũ lụt kèm theo. Do đó trong dân gian có câu “Ông tha mà bà
chẳng tha” là vậy. Những trận bão năm Thìn thì có vài lần, nhưng trận
bão năm 1904 và
1964 là 2 trận bão lụt kinh hoàng nhất.
Trận bão Giáp Thìn 1904
Ðó
là chuyện bão lụt năm Thìn tôi muốn nhắc lại vì chuyện đó khó quên
trong tâm trí những người sống ở thế hệ sau trận lụt kinh hoàng đó.
Trong quyển “Gò Công xưa và nay” của Huỳnh Minh và “Gò Công cảnh cũ
người xưa” của Việt Cúc đã viết về trận bão lụt năm Thìn này, như sau:
“Từ 10 giờ cho đến 3 giờ chiều ngày 16-3 âm lịch, mưa không ngớt hạt. Từ
4 giờ chiều cho đến về đêm, gió càng ngày càng thổi mạnh, trốc gốc cây,
trốc nóc nhà, tường xiêu vách đổ. Sóng chụp cao 3.5m, cuốn mất nhà cửa
và người ra biển. Rắn rít bò khắp nơi, cắn chết nhiều người”.
Nhà
cửa lần lượt bị sập, ngói bay trốc nóc, tường xiêu vách đổ ầm ầm. Lúc
đó người thì lo việc tỉa bắp trồng khoai ngoài đồng ruộng, kẻ thì đang
hành nghề đánh cá nơi biển khơi. Trong làng đang làm lễ cúng thần xây
chầu hát bội thì cuồng phong nổi dậy ầm ầm, mây mù tứ phía, mưa tuôn xối
xả, sóng nước tràn vào rất mau. Một lượn sóng chụp đứng lên cao cuốn
mất nhà cửa, có nhà ở gần biển chết trọn cả gia đình. Nước dâng thật
nhanh, lên cao 3m, ngập lút cả ngọn cây, ở Vàm Láng ghe đưa cao tận nóc
nhà, 4 phía chỉ thấy trời nước mênh mông. Không chỉ các ghe mà cả tàu
sắt cũng bị quăng lên bờ. Nhiều người mắc kẹt trên các ngọn cây, hai ba
ngày quần áo rách tả tơi, đói khát.
Hôm
ấy cũng đúng vào ngày bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn. Chiều hôm
trước là ngày khánh thành tuyến xe lửa Sài Gòn – Gò Vấp. Trong bài diễn
văn của mình, một quan chức Sài Gòn dõng dạc tuyên bố: “Nam Kỳ vốn là
Phật địa, không bao giờ có bão lụt tàn phá như các xứ thuộc địa khác. Ấy
là sự bảo đảm thịnh vượng chung cho xứ sở, cho mọi người, mà cũng là
một hạnh phúc riêng cho các công ty xe lửa …”.
Cuộc
bầu cử hôm ấy vắng mặt tới trên 400 cử tri do thời tiết xấu, kết quả
kiểm phiếu bị huỷ bỏ và phải dời lại Chủ Nhật tuần sau. Đến chiều, trận
dông mưa mới thật kịch liệt cực điểm. Mưa to gió lớn đến nỗi nhiều con
ngựa đang kéo xe hoảng sợ bứt dây cương, quăng xe chạy tháo thân. Có xe
bị lật nhào kéo theo cả con ngựa nằm té sải cẳng. Hầu hết các xe đều gãy
gọng, bay mui, phu xe bỏ chạy tán loạn. Dọc theo sông Sài Gòn, tàu, sà
lan, ghe tam bản, ghe chài, ghe lồng đứt dây, trôi ra giữa sông bị sóng
gió đánh ập, va đập nhau mà chìm. Trên sông Sài Gòn, các tàu lớn
Canebiere, Adour và Hop Sang bị sóng đẩy lên bờ nằm ngả nghiêng. Chiếc
Patroclus đang đậu ở Thủ Thiêm đứt dây neo, chạy ra giữa sông đụng chìm 4
chiếc ghe chở đá, đâm thủng một chiếc ghe chài chở lúa, nhận chìm
khoảng một chục chiếc tam bản trước khi chìm xuống bến Nhà Rồng.
Thật
ra tháng Ba trời có bão chẳng gì kỳ lạ. Tháng Ba là tháng âm lịch chứ
ngày xảy ra bão là ngày 1 tháng 5 dương lịch (năm nhuận). Mùa bão xứ
nhiệt đới thường bắt đầu vào tháng 5 cho đến tháng 12. Bão đến sớm một
chút cũng là chuyện bình thường. Ngoài mưa gió giông giật, trận bão năm
Thìn có sóng thần xảy ra ở vùng cửa biển. Nhiều làng gần bờ biển bị sóng
cao ập vào bờ cuốn trôi nhà cửa. Người chết rất nhiều khoảng 3,000
người. Và sau thời điểm này một số câu ca dao được sáng tác ghi nhớ sự
kiện này: “Gặp em đây mới biết em còn / Hồi năm Thìn bão lụt, anh khóc
mòn con ngươi”. Hay “Dốc nào cao bằng dốc Châu Ðốc / Gió nào độc bằng
gió Gò Công/ Một trận đông phong xiêu vợ lạc chồng / Em nằm nghĩ lại
nước mắt hồng tuôn rơi”.
Trận bão Giáp Thìn 1964
Theo
nhiều tài liệu báo chí kể, năm Giáp Thìn 1964, ngày 5 tháng 11 lại một
trận bão lụt kinh hoàng xảy ra tại miền Trung, tâm bão đánh thẳng vào
tỉnh Quảng Nam, tàn phá toàn tỉnh và các tỉnh lân cận như Thừa Thiên
Huế, Quảng Trị, Quảng Tín, Quảng Ngãi và làm chết 10,000 người. Tuy
nhiên, con số thương vong cao nhất được ghi nhận là tại vùng rốn lũ nằm ở
quận Đức Dụ, tỉnh Quảng Tín (nay là một phần của huyện Hiệp Đức và Nông
Sơn, tỉnh Quảng Nam). Khu vực này chạy dọc theo thượng nguồn con sông
Thu Bồn với 2,500 người chết.
Cụ
Huỳnh Tấn Châu (89 tuổi, thôn Đông An), vị cao niên may mắn sống sót
trong thảm họa năm xưa kể: “Cuối tháng 9 năm đó đã có 1 trận lụt, nước
cứ mấp mé không chịu rút. Đến mùng 4/10, mưa to kéo dài không ngớt, trời
lúc nào cũng âm u tối đen. Thế nhưng, mực nước cũng chỉ “bình bình” chứ
không lớn. Nhưng đến chiều tối ngày mùng 6/10 (tức ngày 9/11/1964) nước
ập vào nhanh chóng. Nhiều gia đình, nhiều xóm trước đó dù đã chuẩn bị
tránh lụt trên các nhà cao, vùng đất cao, nhưng rồi vẫn bị nước lũ hoặc
bị cây cối từ nguồn đổ xuống, càn quét qua cuốn đi hết sạch…”.
Cứ
thế, cả làng Đông An với hơn 360 nhà dân, chỉ còn lại được 7 nhà. 1,485
con người đã vùi mình trong dòng lũ, hầu hết không tìm thấy xác, may
mắn sống sót được 14 người. Chỉ trong tích tắc, nước cuồn cuộn đổ về
cuốn phăng đi tất cả. Ông cùng vợ hốt hoảng, ôm lấy những đứa nhỏ, đứa
lớn được yêu cầu bu theo người ông. Nhưng ngoảnh lại, từng đứa một rơi
rụng, bản thân ông đành bất lực nhìn con chới với trong nước rồi mất
hết. Không đủ sức chịu đựng, bà vợ đã thả tay chìm nghỉm giữa dòng nước
hung hãn. Rất nhanh sau đó, ông Châu cũng thả tay nhưng chẳng thể ngờ
lại được đẩy vào một gò đất cao nên còn sống. Chờ nước lũ rút đi, ông
tìm về lại làng với hy vọng, vợ con cũng may mắn như mình.
Bước
thấp bước cao nhiều ngày liền trong sình lầy vẫn không tìm thấy người
thân, lúc này, ông Châu tình cờ chạm mặt bà Trương Thị Lục (ngụ cùng
làng) đang ẵm đứa con trai 6 tháng tuổi, cũng đang đi tìm gia đình trong
vô vọng.
Năm
1964, bà Lục lấy chồng ở cùng làng Đông An. Gia đình bà có 6 người nhưng
cộng 2 bên nội ngoại lên đến 17 người. Do bà có con nhỏ nên người hàng
xóm cho lên ké chiếc ghe nhỏ của gia đình mình, được cột vào một cây to
giữa làng. Những người còn lại, thấy lũ về, ai nấy trèo lên gác để ngồi.
Được một lúc, nước lên cao quá, mọi người phải dỡ mái tranh trèo ra
ngoài nóc nhà. Xung quanh, nước bao vây trắng xóa.
Bà
Lục kể, trong ánh sáng nhờ nhờ chập choạng tối, bà nhìn thấy khắp làng,
người nào cũng leo hết lên nóc nhà. Nhưng chỉ sau đó ít phút, bắt đầu
những tiếng kêu la chới với xé màn đêm, khi các ngôi nhà cũng bắt đầu đổ
ập trôi đi. Nhà của bà Lục với 15 con người cũng vậy. Ngay cả chiếc
thuyền nhỏ mà mẹ con bà trú nhờ cũng chao đảo theo dòng nước lũ.
Nửa
tháng sau nước rút, ông Châu cùng một số ít người sống sót trở về ngôi
làng cũ, một cảnh tượng như địa ngục hiện ra trước mắt. Ngôi làng trù
phú giờ không còn dấu tích, nhà cửa trôi hết, cả làng không còn một ngọn
cây, khắp nơi xác người nằm ngổn ngang, la liệt. Phía bên trên, quạ đen
bay kín trời, kêu quàng quạc rợn người. Do trận lụt kinh hoàng này,
người xứ Quảng có câu nói “ông tha mà bà chẳng tha, hành cho trận lụt
hăm ba tháng mười”
.
Bài viết của Trang Nguyên (báo Tremagazine)
Ảnh 1: Nước dâng cao ngập lụt trong trận bão Giáp Thìn 1904 tại Gò Công (Nguồn: Manhhaiflickr)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét