9 thg 2, 2024

NHỮNG MIỀN QUA - Nguyễn Thị Hâu (P.1 ) ; Ngoại Ô, Hoài Niệm Xứ Đoài , Phù Lảng,Làng Cũ Xóm Mới

 Những miền qua
 

1. Ngoại ô
Ngày giáp Tết có dịp đi khỏi thành phố về vùng ngoại ô, nơi mà cách đây không lâu vẫn còn là một thị trấn náo nhiệt đêm ngày...
Khi ấy cả thị trấn nhỏ này là một ga xe lửa lớn của các tuyến đường sắt phía Bắc. Mỗi ngày hàng chục chuyến tàu qua đây. Tàu nhanh, tàu chợ, tàu hàng... ầm ào sình sịch kéo theo sau nó cột khói than đen sì lẫn trong bụi hơi nước mờ mịt phun ra từ chiếc còi lớn trên đầu tàu. Thị trấn xanh màu áo công nhân đường sắt bởi nơi đây còn có một nhà máy lớn đóng và sửa chữa xe
lửa. Những dãy nhà trệt mái tôn, mái phibro xi măng trải dài theo những con phố nhỏ có hàng cây bàng, cây xà cừ mát rượi. Cư dân trong thị trấn phần lớn là công nhân, nhân viên đường sắt, một số là công chức, còn lại buôn bán nhỏ và bán hàng rong trên những chuyến tàu.
Bây giờ, khi cây cầu cổ xưa nối liền thành phố và thị trấn không còn là con đường huyết mạch nữa vì đã có cầu mới thay thế, đi qua thị trấn chỉ còn vài chuyến xe lửa, thị trấn cũng mất đi sự náo nhiệt ngày nào. Nơi có đường lộ lớn nối liền với quốc lộ 5 trở nên sầm uất với nhà cao tầng,nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ... Phần còn lại của thị trấn dường như bị bỏ quên, thị trấn như
lặng lẽ hơn tuy những ngôi nhà, cửa hàng, chợ búa đã mang bộ mặt mới khang trang hơn trước.
Thế nhưng trên những con phố nhỏ hàng cây bàng, cây xà cừ vẫn thế. Qua giá lạnh mùa đông cành khẳng khiu giao nhau dù chỉ còn lơ thơ vài chiếc lá… gợi nỗi nhớ mơ hồ đến những gì tốt đẹp đã qua...
Dọc đường đê những người phụ nữ ngồi bên những rổ đầy khế, quả lớn năm cánh căng mọng nước, màu xanh ngọc của hơi se lạnh mùa đông, màu chớm vàng của ngày heo may, màu vàng mật của nắng chiều như nhuộm cả vào trái chín...
Ngày đang qua, và ngày cũng sẽ trở thành quá khứ...
Bao giờ ta có cơ may: ăn khế… được trả lại thời gian ta ở bên nhau...?
 

2. Hoài niệm xứ Đoài

Hẹn hò mãi cuối cùng tôi cũng đã trở lại xứ Đoài Hà Tây khi cái nóng đầu hạ tạm lui nhường cho khí trời mát mẻ của đợt không khí lạnh muộn màng tràn về vào một ngày cuối tháng Năm.
Khi sơ tán về Hà Tây tôi mới 6 tuổi, theo trại trẻ lang thang từ Phú Xuyên sang Đường Lâm mỗi nơi vài tuần, rồi cuối cùng lên tận Quảng Oai đóng đô trong ngôi đình Chu Quyến…. Còn nhớ,ngày ấy cứ tối đến là các cô bảo mẫu đi về nhà với con mình, bỏ mặc lũ trẻ cho đứa lớn trông đứa bé. Mấy gian đình mênh mông chỉ le lói ánh đèn dầu. Các cột đình như to hơn, mái đình như sà xuống thấp hơn, sạp đình như rộng hơn, và bóng tối như dày đặc hơn… Tôi lại như già dặn hơn khi cứ nằm thao thức giữa bạn bè là lũ nhóc 5,6 tuổi như tôi. Lúc đó đâu đã biết sau này theo nghề khảo cổ, vậy mà cứ nhắm mắt là tôi nhìn thấy rõ ràng những đường nét chạm khắc mềm mại mà phóng khoáng, những đầu đao cong vút nhẹ nhàng mà cứng cáp ở đình Mông Phụ,đình Chu Quyến…
Lớn hơn một chút, mỗi sớm mùa đông lạnh giá tôi cùng mấy đứa bạn ra bãi ngô ngoài đê, len lỏi vào những hàng ngô cao quá đầu còn ướt đẫm sương đêm, nhổ từng bụi rau muối nhỏ li ti… Cây rau muối thân mềm như rau sam, lá nhỏ lấm tấm trắng như những hạt muối li li, loại rau này nấu canh ngọt lừ, không cần mì chính. Lớn thêm chút nữa, theo các anh chị tôi đi lên đồi cắt ráng –loại cây dương xỉ - về phơi khô để đun bếp. Từ sáng đến chiều khi trở về mỗi đứa gánh hai bó ráng thật lớn, phải dùng đòn xóc, tuy cồng kềnh nhưng không nặng lắm… Đêm ngồi trên bờ đê ngóng về Hà Nội vẫn thấy pháo sáng máy bay địch thả từng chùm sáng rực phía phà Trung Hà…
Ngày hè nước lũ lên cuồn cuộn vẫn ra bến sông trông theo những chiếc thuyền nhỏ như chiếc lá bập bềnh trên sóng. Trong mắt con bé Hà Nội 6, 7 tuổi như tôi, lạ nhất là thấy người ta ngồi và dùng hai chân chèo thuyền, hai tay vơ củi rều trôi trên sông hay dùng lưới bắt cá mòi. Chiều về bến sông thơm mùi khói nướng cá mòi, cứ 2,3 con kẹp bằng một nẹp tre, trở qua trở lại trên củi than cho cá vửa vàng sém. Cá mòi nướng có thể ăn ngay, nhưng thường thì người ta mua về kho khô với riềng, ăn với cơm chan nước rau muống luộc vắt chanh thì không có gì ngon bằng!
Tôi ở Đường Lâm hình như có vài tuần. Trong ký ức thời thơ ấu, Đường Lâm làng cổ là con đường đất nhỏ len lỏi giữa những bờ tường đá ong nâu đỏ, là thấp thoáng dàn mướp hoa vàng trước sân ngôi nhà năm gian cột gỗ nâu bóng vệt mồ hôi, là mạch nước giếng ngọt ngào giữa trưa hè oi bức, là cánh đồng ngô gió heo may xào xạc ngày đông… Ngôi miếu nhỏ trên đường
dẫn vào cổng làng là nơi tôi đứng lại mỗi khi tiễn ba má lên thăm tôi rồi quay về Hà Nội. Có lần khi ba má về rồi, tôi cứ ngồi đó đến tận tối, xung quanh gió xào xạc lúa, cổng làng tối thẫm, bóng cây đa trùm kín một khoảng trời, con bé 6 tuổi không thấy sợ hãi, chỉ thấy cô đơn và tủi thân kinh khủng… Từ ngày ấy cái cảm giác này cứ đeo đẳng mãi, như là số phận của tôi…
Nay trở lại Đường Lâm, vẫn bờ tường đá ong, vẫn nhà ngói năm gian, vẫn sân đình rơm phơi thơm ngái, vẫn giếng cổ vẫn miếu hoang giữa cánh đồng… nhưng hồn vía của cái làng ngày xưa thì dường như không còn nữa…
Ấy là con đường bê tông rộng rãi sạch sẽ đến lạ lùng, ấy là bờ tường đá ong lộ rõ mạch vữa không còn chút rêu xanh, ấy là những ngôi nhà gỗ hàng trăm năm tuổi nhưng gian bếp nhà ngang đã thấp thoáng gạch men bếp gaz mà nhạt mùi khói rơm khói rạ… Ngôi đình làng được chăm sóc tốt thành ra chỉn chu quá, lại lạc giữa những ngôi nhà ngói mới, mái bằng đổ bê tông
nên trông giống như một cụ già gương mặt phong trần nhưng vì đứng giữa bọn trẻ nên cũng phải áo bỏ trong quần thắt lưng nghiêm ngắn… Em đưa tôi về quê, nhưng chắc em không biết những ký ức của tôi với vùng quê của em. Ngày tôi ở đó hình như em còn chưa sinh ra đời… Tôi mong trở lại vì sợ rằng ngày gần đây làng cổ quê em sẽ biến thành một nơi dở phố dở làng khi Đường Lâm trở thành đơn vị hành chính là “quận” hay “phường” gì đó… Bây giờ Làng cổ Đường Lâm là di sản văn hóa, là làng du lịch, đời sống dân làng đã sung túc hơn nhiều. Như vậy đời sống vật chất hiện tại cũng tốt, mà giá trị tinh thần của quá khứ cũng được giữ gìn… Vậy mà sao tôi vẫn thấy gờn gợn một điều gì đó…?
Mà thôi, chắc tại tôi cả nghĩ… Bên bờ tường đất hiếm hoi còn lại trong làng cổ vẫn xanh dàn bầu dàn mướp đó thôi.

3. Phù Lăng làng cũ xóm mới
Ngày cuối thu tôi trở lại làng gốm Phù Lãng. Thăm xưởng Gốm Nhung. Cơ ngơi đàng hoàng, nhà xưởng khang trang, sản phẩm hiện đại nhưng vẫn lưu giữ nét dân dã...
Độc đáo nhất là những đồ sành mộc không vẽ men màu, không nhiều chi tiết... Chỉ màu nâu sành đã bao nhiêu sắc độ khác nhau, những giọt men sành đọng lại đầy ngẫu hứng... Tài năng người làm gốm ở đây, mà sự độc đáo khác biệt của mỗi lần nung gốm cũng ỡ đây. Thích thú với những
sản phẩm mỹ nghệ, trang trí của ông chủ lò gốm Nhung bao nhiêu, tôi càng chia sẻ những trăn trở giữa việc cần sản xuất những gì để bán được, để sống được với khát vọng sáng tác những tác phẩm để đời của người nghệ sĩ trong ông chủ doanh nghiệp Gốm Nhung bấy nhiêu...
Chợt nhớ câu chuyện đã đọc trong một cuốn sách về gốm cổ Trung Hoa, loại men rạn đặc biệt có được bắt đầu từ lỗi của lò nung... Bạn hỏi sao cứ thích thú với những sản phẩm bị hư hỏng? À, đó là những phế phẩm do lỗi kỹ thuật, quan sát chúng sẽ biết kỹ thuật sản xuất, từ công đoạn tạo
dáng, đến sửa sang, chồng lò, nung, và hoàn chỉnh sản phẩm...
Ông chủ Nhung cười khi biết tôi là dân chuyên đi đào bới: Vài trăm năm nữa đào ở đây lên thì khối hiện vật! - Chứ sao, làng gốm Chu Đậu cũng thế. Nhưng tại sao lại cần vài trăm năm nữa khai quật lại, khi mà bây giờ có thể giữ gìn lò gốm này, lưu giữ những sản phẩm này cho đời sau? sao Gốm Nhung không hình thành ngay một bảo tàng đi nhỉ? Trên thế giới đâu thiếu những bảo tàng như thế!
Trên bức tường rêu treo những phù điêu, tượng nhỏ... Trông chúng có hồn hơn, khi là những sản phẩm lưu niệm trong các cửa hàng mỹ nghệ.
Làng vẫn cổ với những bức tường xếp bằng chum vại phế phẩm phủ dây mướp mềm mại thấp thoáng hoa vàng... Làng vẫn xưa với con đường ngoằn ngoèo, những chú chó, chú gà vẫn ngơ ngác chạy qua chạy lại, đàn bò vẫn thủng thỉnh giữa đường, chẳng cần biết đến chiếc xe ô tô dừng trên đường làng cũng đang ngơ ngác nhớ...

(còn tiếp )

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét