_________________
NHỚ VỀ ĐÀ LẠT:
Xa xứ vọng quê có lạ đâu,
Vậy mà trằn trọc suốt đêm thâu.
Đồi thông reo
gió, lòng luôn tưởng,
Hồ nước giăng mưa, dạ mãi sầu.
Thác đổ trắng ngần - ngần nỗi nhớ,
Hoa cười tươi thắm - thấm niềm đau!
Ai về Đà Lạt cho tôi nhắn,
Thương quá đi thôi,
bạc
mái đầu!
Khôi Nguyên
Họa 1:
XA RỒI ĐÀ
LẠT ƠI!
Lâu rồi Đà Lạt chắc còn đâu?
Thành phố mộng mơ thức trắng thâu.
Kìa Viện Trúc Lâm phong cảnh đẹp,
Kìa Viện Trúc Lâm phong cảnh đẹp,
Nọ Hồ Than Thở mối tình sầu.
Mưa bay lất phất, khơi niềm nhớ,
Thác đổ ầm ì, khóc nỗi đau.
Xa cách bao năm tôi vẫn đợi,
Thương hoài chốn cũ mối tình đầu!
Nguyễn Cang
Họa 2:
ĐÀ LẠT LƯU
DẤU
Đêm nằm thao thức hướng về đâu,
Đà lạt đâu đây hiện
dáng thâu.
Than Thở mặt hồ thơ ẩn tích,
Xuân Hương sóng nước mạch duyên sầu.
“Đồi thông” nhắc nhở tình đôi lứa,
“Hai mộ” ghi hình nổi đớn đau.
“Đà lạt” nghìn thương luôn mãi nhớ,
“Hoàng hôn”nhạc cũ gợi duyên đầu.
HỒ NGUYỄN
ĐỒI THÔNG HAI MỘ
Đồi cao nhàn nhã dáng hàng thông,
Hai mộ bên nhau thật ấm lòng.
Sống giữ trọn tình yêu ước hẹn,
Chết nằm cạnh mộ kết song song.
Gió thu ríu rít nghe buồn thãm,
Chim hót u sầu gợi nhớ mong.
Đông đến lạnh lùng cơn giá rét,
Đồi thông hai mộ ấm duyên nồng.
HỒ NGUYỄN (12-8-15)
HỌA
Đồi Thông Hai Mộ
Đà Lạt chuyện tình dưới gốc thông,
Nghe qua cảm thấy rất chua lòng.
Môn đăng hộ đối, chia uyên thúy,
Giai cấp sang hèn, cách núi sông.
Trắc trở “trăm năm”không thất vọng,
Lỡ làng “số kiếp” vân chờ mong.
"Đồi thông hai mộ"gương nhân thế,
Duyên ép mấy ai được ấm nồng?
Khôi Nguyên
HỒ THAN THỞ
Mặt
hồ ánh nắng chiếu
lung linh,
Than thở lời lưu dấu
cuộc tình.
Ngày ấy chung đôi ghi thệ
ước,
Bây giờ đơn lẽ dáng hồ xinh.
Chàng Tùng hút bóng Mai Nương đợi,
Nàng đắm hồ sâu
kiếm bóng hình.
Mây trắng thu về
vươn dáng xám,
Lời
ai than thở thoáng lung
linh.
HỒ NGUYỄN
HAI CÂU CHUYỆN MỘT CUỘC TÌNH
Hai chuyện in nhau một
cuộc tình,
Tình chung nghĩa thủy vẹn
kiên trinh.
Mặt
hồ nước động
tình không chuyển,
Thông ngã rừng kêu nghĩa vững gìn.
Hai nấm mộ nằm in dáng đẹp,
Một
hồ than thở gợi tình xinh.
Mai Nương gắn bó bên
Tùng mãi,
Nàng Thảo cùng Tâm giữ
trọn tình.
HỒ NGUYỄN (14-8-15)
🌟🌟🌟🌟🌟🌟🌟
🌟🌟🌟🌟🌟🌟🌟
SỰ TÍCH HAI CÂU CHUYỆN:
1- Hồ
than thở: Theo truyền thuyết: Nơi
đây gắn liền với câu chuyện tình của Hoàng Tùng và Mai Nương. Chuyện xảy ra vào
thế kỷ 18, khi người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ dấy binh đánh đuổi bọn xâm lược nhà Thanh,
vào thời Lê Chiêu Thống (khoãng năm 1789) trai tráng khắp nơi hưởng ứng, trong
đó có chàng thanh niên Hoàng Tùng. Trước khi chia tay, hai người rủ nhau ra bên
bờ hồ than thở hẹn thề. Chàng hẹn đến mùa xuân - khi hoa mai anh đào nở - sẽ
đem tin thắng trận trở về.
Sau đó, ở nhà, nàng
Mai Nương nhận được tin Hoàng Tùng tử trận nên nàng tuyệt vọng, đã quyết định
gieo mình bên dòng suối tự trầm. Nhưng trớ trêu thay, đến giữa mùa xuân Hoàng
Tùng thắng trận trở về, hối hã đi tìm người yêu nhưng chàng vô cùng đau buồn
khi biết người yêu đã chết. Cảnh cũ còn đây nhưng người yêu đã mất, chàng đau khổ
đến tận cùng nên gieo mình xuống hồ nước chết theo nàng Mai Nương để minh chứng
cho lòng chung thủy sắt son. Cảm thương đôi trai gái bạc mệnh, rừng thông rì
rầm khúc nhạc bi ai. Từ đó hồ có tên là Than Thở cho đến ngày nay.
Vào thời kỳ
Pháp thuộc, người Pháp đặt tên cho hồ nầy là “Lac des Soupirs”, là hồ thì thầm
từ khu rừng bên cạnh, sau nầy là rừng thông, cũng có nghĩa là tiếng thì thầm
than thở. Sau nhiều thời gian thay đổi tên gọi khác nhau, cuối cùng cho đến nay
hồ vẫn lấy lại tên HỒ THAN THỞ như cũ.
2- Đồi thông hai mộ:
Sự tích là chuyện có thật đã xảy ra như sau:
Người con trai
tên là Tâm, con của một đại điền chủ ở tỉnh Gò Công, Nam phần VN. Vì là con một
nên cha mẹ chàng bắt chàng có vợ sớm để có con nối dõi tông đường. Chàng vì một
phần chưa muốn có gia đình, phần khác lại không muốn làm cha mẹ buồn nên lén
đầu quân vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Thời gian học ở đây, chàng có quen
một người con gái gia đình là công chức, cô gái tên là Lê thị Thảo, con một gia
đình nghèo. Hai người tâm đầu ý hợp, yêu nhau tha thiết, hẹn biển thề non. Ra
trường, Tâm về xin cha mẹ trầu cau cưới hỏi nàng Thảo. Nhưng chàng Tâm gặp phải
sự cản trở quyết liệt của gia đình vì quan niệm môn đăng hộ đối. Cha mẹ chàng
bắt chàng đi cưới người con gái khác mà chàng không hề yêu mến. Vì lẽ đó, Tâm
đã xin chuyển đến một đơn vị chiến đấu vùng tuyến đầu lửa đạn.
Từ khi Tâm
rời trường Võ Bị ra chiến trường, Thảo vô cùng đau khổ khi biết cha mẹ Tâm
không chấp nhận chuyện của hai người và còn thêm nổi buồn lo cho người yêu đang
vì mình mà lao vào tuyến đầu lửa đạn nên dù cha mẹ hết lòng khuyên lơn, dù
không biết bao nhiêu người mối mai dạm hỏi, nàng cứ một mực đợi chờ chàng trở
lại. Những cánh thư từ chiến trường gửi về bây giờ là niềm vui, là lẽ sống của nàng.
Cho đến một ngày kia, nàng nhận được tin báo tử từ chiến trường gửi đến. Quá buồn rầu nàng lâm trọng bệnh và sau đó mất. Trước khi mất, trong một lá thư tuyệt mạng đề ngày 15-3-1956, nàng xin người nhà chôn nàng trên đồi thông, nơi mà trước kia hai người thường hẹn nhau tâm sự.
Nhưng thật ra Tâm không chết - người ta đã nhầm lẫn khi gởi giấy báo tử. (Thật là căn số, định mệnh). Khi trở về Tâm mới hay là Thảo đã chết và được chôn trên đồi thông vi vu gió ngàn, lưu nhiều kỷ niệm của hai người. Vì quá đau buồn, Tâm xin trở vào vùng lửa đạn và đã hi sinh trong một trận giao tranh ác liệt. Trong thư còn lưu lại trong chiếc ba lô mà chàng luôn mang theo, Tâm có ghi ý nguyện của mình là nếu chàng có tử trận thì xin được chôn xác bên cạnh mộ người yêu tên Thảo bên đồi thông Đà lạt.
Cho đến một ngày kia, nàng nhận được tin báo tử từ chiến trường gửi đến. Quá buồn rầu nàng lâm trọng bệnh và sau đó mất. Trước khi mất, trong một lá thư tuyệt mạng đề ngày 15-3-1956, nàng xin người nhà chôn nàng trên đồi thông, nơi mà trước kia hai người thường hẹn nhau tâm sự.
Nhưng thật ra Tâm không chết - người ta đã nhầm lẫn khi gởi giấy báo tử. (Thật là căn số, định mệnh). Khi trở về Tâm mới hay là Thảo đã chết và được chôn trên đồi thông vi vu gió ngàn, lưu nhiều kỷ niệm của hai người. Vì quá đau buồn, Tâm xin trở vào vùng lửa đạn và đã hi sinh trong một trận giao tranh ác liệt. Trong thư còn lưu lại trong chiếc ba lô mà chàng luôn mang theo, Tâm có ghi ý nguyện của mình là nếu chàng có tử trận thì xin được chôn xác bên cạnh mộ người yêu tên Thảo bên đồi thông Đà lạt.
Do đó, sau khi
tử nạn xác của Tâm được chôn cạnh mộ của Thảo, song song nhau. Từ đó, người ta
gọi vùng nầy là ĐÔI THÔNG HAI MỘ.
Sau năm 1975,
gia đình Tâm quật mồ cải táng đem về chôn tại quê nhà ở Gò Công. Dân chúng
quanh vùng Đà lạt, vì mến yêu tình thủy chung của đôi tình yêu “Tâm Thảo” nên
xây lại ngôi mộ giống như trước đây để kỷ niệm dù thực tế chỉ còn lại hài cốt
của nàng Lê thị Thảo. Nhưng mọi người tin có lẽ hồn họ vẫn ở bên nhau
(Tài
liệu do Hồ Xưa sưu tầm tổng hợp lại)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét