6 thg 12, 2025

Thôi Em Về - Thuyên Huy



 MỜI XEM : 



Đặng Kim Côn: Thiền Tăng Và Tôi

 

                            Minh họa: HOÀNG ĐẶNG (Nguồn: nld.com.vn)

Rồi cũng qua những ngày đợi mong. Nghe Chu Văn phỏng vấn có kết quả tôi là một trong những người vui mừng nhất. Ông ta là người bạn thân của tôi qua nhiều thời kỳ, giai đoạn của xã hội: từ lúc còn là học sinh trung học, vào quân trường, cùng tù tội, cùng có với nhau cái sở thích đọc sách, chơi bonsai, cùng qua lại mật thiết với nhau và cùng kết làm sui gia với nhau sau khi gia đình tôi định cư ở Mỹ và ông sui đã được con gái bảo lãnh sang Cali.

Vì vợ chồng tôi có công việc ở Florida nên không thể về đón mừng Chu Văn được, tôi tới tấp gọi điện thoại hàn huyên, vui mừng đến không giữ kẽ, nói hối nói hả, kể vội kể vàng những chuyện khó nói những lúc gọi đìện thoại về Việt Nam cũng như những lần gặp mặt khi tôi về thăm quê. Hai năm trở lại đây Chu Văn đột nhiên từ bỏ ăn nhậu, đàn đúm, gái ghiếc trở thành một cư sĩ miệt mài nghiên cứu kinh sách Phật Giáo, mặc áo nâu, ngồi thiền, ăn chay trường theo phương pháp Oshawa, nên nói chuyện với nhau cũng có chút lấn cấn, bỡ ngỡ, buồn cười, quên thì tao mày, nhớ ra thì tui ông. Tôi nghĩ vui, chắc cũng tới lúc lục thân bất nhận rồi.

Ngày đầu tiên, tôi biết Chu Văn rất bận vì khách khứa tới lui thăm viếng liên miên, nên tôi đợi ngày hôm sau, lúc tối để chúng tôi mới nói chuyện được nhiều. Tôi xem Chu Văn là một thức giả nên tôi tôn trọng, rất tôn trọng những việc ông làm. Dù là không mấy thích thú với con đường tu tập, không nghĩ có một ngày nào tôi sẽ theo bước Chu Văn nhưng tôi muốn ông vui, tôi hỏi han về ăn chay, về pháp môn ông đang theo. Ông cho biết là ông tu theo nhiều pháp môn, thiền tông, mật tông đều có và đọc kinh của một thiền sư tên tuổi dịch. Tôi bày tỏ thái độ không ưa thích vị sư đó, qua những chuyện Sư về Việt Nam phô trương thanh thế như những kẻ thế tục cầu danh, qua một lần tôi nghe Sư thuyết pháp trên đài phát thanh, đã hả hê nhắc đến cái chết của anh em Cụ Ngô Dình Diệm, sự sụp đổ của gia đình nhà Ngô, cái chết của Ngô Đình Lệ Thủy là một ví dụ của báo ứng, trả giá cho những sự kiện áp bức giết hại các văn thân của thế hệ cha anh cụ Ngô, đến lời tuyên bố về sự kiện 911 ở Mỹ, là “người Mỹ phải trả giá cho những sự tàn ác của họ, cho những gì họ đã gây ra cho nhân loại”, Sư cho đó là hậu quả tất yếu của những kẻ gieo nhân. Lời giảng giống như những lời sỉ vả, nguyền rủa, trả thù những người khuất mặt mà tôi xem là không mấy quân tử, không mấy sạch sẽ từ miệng một thiền sư không biết tăm tiếng hay tai tiếng.

-Những điều mày nói thì tao cũng có đọc trên mạng, nhưng mà đúng sai thì đó là con người của ổng, tao không để ý. Tao tu cho tao mà.

-Thôi bỏ chuyện đó đi, không biết mày thích nghi được Mỹ không. Hằng ngày ai cũng đi làm, mày sẽ ở nhà một mình.

-Chắc là tao sẽ thích hơn ở Việt Nam. Mấy năm nay tao không còn cái nhu cầu phải ra ngoài, cũng như không cần thiết phải gặp ai.

-Tao muốn giới thiệu mày một người nói chuyện cho vui. Thằng rể tao đó, nó nói hôm nay nó có đến thăm mày.

-Ồ tao gặp nó rồi.

-Nó có nhiều kinh lắm. Qua Mỹ 6 tuổi nhưng nó nói tiếng Việt rất rành, nó cũng rất thích nghe mày nói về Đạo, về Thiền. Có điều cái quan niệm của nó lại không thiên về tâm linh, mặc dù nó không phủ nhận thuyết luân hồi mà theo nó đó là hệ quả của những phản ứng lý hóa, khoa học. Nó nói có một thế lực ngoài hành tinh điều khiển loài người, mà cái thế lực đó úp úp mở mở cho loài người biết là ở đâu đó có họ. Họ nhốt loài người ở trái đất này để làm việc cho họ, giống như trái đất là một trại cải tạo được rào quanh bằng một lớp khí quyển. Họ cũng cho thấy họ có mặt trên trái đất này phải là hằng năm bảy chục ngàn năm về trước qua những di tích văn minh sót lại.

-Như Kim Tự Tháp chứ gì?

-Ừ, Kim Tự Tháp là một. Nhiều, nhiều khác, ví dụ bức tường đá ở Peru mà mỗi tảng đá cả mấy chục tấn lèn vào nhau không phải bằng hồ vữa mà bằng mộng khít rin nhau, cho tới nay khoa học vẫn chưa có gì cưa cắt, đục chạm nổi, như thành phố bị vùi dưới nước ở Nhật mà hình chụp cho thấy có những khối đá hàng mấy cây số được cắt phẳng phiu như người ta đúc một cục gạch nhỏ. Nó có hằng ngàn trang tài liệu về cái thế lực vô hình đó, từ đĩa bay, đến những lợi ích cho nhân loại dùng miễn phí như những nhà máy điện hay xe chạy không cần nhiên liệu, trái ý với thế lực chủ nhân ông kia. Dĩ nhiên, họ cũng đã có cái lịch để cho loài người lúc nào được hưởng đến cái phương tiện văn minh nào, thông qua trí tuệ của một bác học nào, mà theo Da Vinci Code thì tất cả đã có công thức từ trước. Nghĩa là loài người cứ ngoan ngoãn làm việc đi, sẽ lần lượt được hưởng những tiện nghi văn minh theo ý họ. Ví dụ computer được phát minh ở thế kỷ 20, thật ra đã có nhiều bằng chứng cho thấy là đã xuất hiện trước đây nhiều ngàn năm. Mày có đọc kinh Vệ Đà của Ấn Độ không ?

-Sao?

-Mày có thì giờ không? Tao hơi sa đà chút, khi loài người thông minh quá, tự khám phá ra những công trình quá giới hạn, tức là thách thức tới cái quyền uy tối thượng của họ, lúc đó họ sẽ rat tay trừng phạt loài người, ồ, xin lỗi, tao chỉ là con vẹt thôi, trở lại chuyện Kinh Vệ Đà, trong đó có nhắc đến cuộc chiến tranh giữa các vì sao cách đây mười lăm, hai chục ngàn năm mà di tích còn sót lại một chiến trường ở Ấn Độ, đã xóa sổ nhân loại để làm lại một thế hệ con người mới, mà theo Kinh Thánh là Chúa tạo ra loài người ngoan ngoãn hơn. Và từng thời kỳ họ sẽ phái những sứ giả như Tất Đạt Đa, Jesus đến trái đất để nhắc nhở loài người biết nhớ tới cái đời sống của thế giới bí ẩn kia…

Chu Văn cắt ngang:

-Mà thằng đó nó làm gì?

-Ai?

-Thằng rể ông.

-Thì phải làm gì mới nói chuyện với mày được hả?

-Tui muốn nói là nó làm được gì với những cái kiến thức ấy?

-Nó chỉ làm công nhân bình thường thôi. Quan niệm của nó là không muốn phục vụ cho lợi ích của bọn thống trị, tức là bọn ở thế giới khác điều khiển hành tinh này. Sống nhẹ nhàng, không nô lệ quá với vật chất, văn minh, không cần ăn uống cầu kỳ, mặc sang, đẹp, đi xe mắc tiền. Nghĩa là vừa đủ.

-Nó có tin ở kiếp sau không?

-Tao có nghe nó giải thích theo những hệ quả vật lý, nhưng tao không hiểu. Tao có nói với nó, mai mốt Bác Chu Văn qua, hy vọng con có một người để học hỏi và những điều con cần nói sẽ có người nghe và hiểu.

-Tui nói ông nghe điều này, Đức Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền, khi Ngài đem Thiền Tông vào Trung Quốc chỉ có một mình Ngài, và Ngài cũng đã không dùng ngôn ngữ để diễn đạt đạo lý của Ngài, có thể coi như Ngài không biết cách nói sao cho người ta hiểu. Vua bấy giờ là Lương Võ Đế, sùng Đạo Phật theo kiểu Trung Quốc, cho mời Ngài vào thuyết pháp nhưng cuối cùng Ngài đã không thể nào khai ngộ cho vua được, nghĩa là Ngài thất bại trong việc thông qua một vị vua để mở ra một con đường cho hậu thế. Thế là Ngài buồn quá, trở về Thiếu Thất Sơn ngồi quay mặt vào vách đá chín năm gọi là diện bích. Cho nên, tui tu là tu cho tui, tui rất sợ những người kiểu như thằng rể ông.

Im lặng. Có cảm giác như không còn tăm hơi nào trong chiếc điện thoại tôi đang nói, tôi alo, alo cũng không nghe trả lời, không lẽ bên kia đã cúp điện thoại? Hay là hết pin? Chắc hết pin, tôi đã không thấy trong giọng của Chu Văn có gì tức giận. Hôm sau gọi về thăm Má tôi, đã hơn 80 tuổi, Má đang ở nhà của một thằng con tôi, dự bữa cúng tuần 3 tháng 10 ngày cho Mẹ vợ nó, tức là một bà sui khác của tôi, nghe nói Chu Văn cũng có đến và vừa mới về. Không biết có phải Má tôi hiểu lầm ý Chu Văn hay không mà đã nạo tôi một trận không thương tiếc:

-Con không tu thì con để người ta tu, nó nói con tội lỗi đầy đầu không lo tu sớm còn theo phá nó.

-Dạ, chắc nó đùa thôi má.

-Đùa gì, nó giận con đấy.

-Trời đất, con có nói gì đâu. Mà con cũng không tin nó giận con. Có thể Má hiểu sai ý nó rồi.

Và tôi đánh trống lảng hỏi thăm sức khỏe Má tôi. Tôi nghĩ thầm, không biết tao có nên gọi về mày nữa không. Thiền tăng, tao có còn là bạn mày hay không?

03/09

Đặng Kim Côn


(Trích: MỘT NGÀY, MỘT NGÀN NGÀY – tập truyện – TAQ 2011)

5 thg 12, 2025

Trang Thơ Đặng Việt Lơi : NÁT NHÀU HOÀNG HÔN , TƯƠNG NGỘ,

 NÁT NHÀU HOÀNG HÔN

Thì thào
khẽ tiếng mưa ru
Ngoài song cửa
ngờ như mù sương bay
Tìm quanh
vạt nắng cuối ngày
Khổ thân
chẳng biết lưu đày chốn nao?
Mưa đầu đông
vạn giọt sầu
Lại tung toé rụng
nát nhàu…
hoàng hôn!
SG_131125
ĐVL
P/s “Vũ vô kìm toả năng lưu… Cóc” 😅
Định sẽ đi đâu đó nhưng mưa chiều lại giữ chân. Đành thôi 😊

2./
TƯƠNG NGỘ
Về cố quận, tạt vào quán cũ
Bất ngờ gặp lại mấy đồng môn
Cám cảnh - đều là dân lữ thứ
Ngồi cùng bù khú chuyện tha hương
Mặc phố mưa buồn cơn áp thấp
Quán quen, chuyện vãn vẫn cao trào
Thế sự - khó tỏ tường khôn dại
Thói đời - dễ ngộ nhận vàng thau
Thì ra tất cả… hưu trí cả
Mà “trí” chẳng hề muốn nghỉ ngơi
Bứt tứt với bao điều bất khả
Thôi đành - đành phải thế mà thôi!
Cứ vậy như “mây trôi, bèo dạt”
Hữu duyên, tương ngộ một đôi lần
Dốc hết vui buồn trong bể khổ
Rồi về - tiếp tục kiếp đa đoan.
Đời mà - mọt chuỗi dài duyên nợ
Tan rồi đến hợp, hợp rồi… tan!
SG_041225
ĐVL 

4 thg 12, 2025

ĐỪNG CHẾT NHƯ TÔI - npn

 

*Đừng chết như tôi! …
Dưới ánh đèn vàng lạnh lẽo của phòng giam tử hình, người tử tù ngồi tựa lưng vào bức tường ẩm lạnh, đôi mắt sâu hoắm nhìn vào khoảng tối trước mặt. Ngoài kia, đêm trôi rất chậm, từng giọt thời gian rơi xuống nặng nề như tiếng khóa sắt khép lại số phận một con người.
Ba ngày nữa, bản án sẽ được thi hành.
Trong túi áo phạm nhân, anh giữ một mảnh giấy nhỏ. Đó là lá thư anh xin được viết để gửi ra ngoài – không phải cho riêng ai, mà cho cộng đồng, cho những người anh chưa từng gặp, và cho cả những ai đang bước đi trên lằn ranh mong manh giữa yêu thương và hận thù như anh từng bước.
Có những đêm, anh không ngủ. Trong cơn mơ chập chờn, bốn khuôn mặt lại hiện về: vợ anh, người em gái, và hai người thân khác – những con người anh từng ăn chung mâm, nói chung một tiếng “nhà”. Tiếng cười của họ ngày cũ giờ hóa thành tiếng gọi trong trí nhớ, dai dẳng, không lời buộc tội, chỉ lặng lẽ nhìn anh bằng ánh mắt khiến trái tim anh quặn thắt hơn ngàn lời nguyền rủa.
Tất cả bắt đầu từ ghen tuông.
Ngày ấy, anh tin rằng mình yêu rất nhiều. Nhưng anh không nhận ra, thứ anh gọi là “yêu” đã trượt dài thành chiếm hữu. Từ những nghi ngờ nhỏ nhặt, những câu hỏi vô cớ, những cơn nóng giận không kiểm soát, lòng ghen trong anh lớn lên từng ngày, âm thầm như đám cỏ dại độc. Cho đến một buổi chiều oan nghiệt, khi sự thật – hay điều anh tin là sự thật – ập tới, lý trí của anh vỡ vụn.
Cơn giận chỉ kéo dài vài phút.
Nhưng tội lỗi kéo dài cả một đời, và xa hơn nữa.
Khi cơn cuồng loạn qua đi, anh nhìn thấy máu, thấy những thân thể bất động, thấy chính mình run rẩy giữa căn nhà từng là tổ ấm. Lúc ấy anh đã quỳ xuống, gào khóc, nhưng đã quá muộn. Không có lời xin lỗi nào có thể gọi người chết sống lại. Không có sự hối hận nào đủ nặng để đổi lấy bốn mạng người.
Trong trại giam, những tháng ngày chờ án là chuỗi dài ăn năn và đối diện. Anh không còn trốn chạy được nữa. Anh phải sống chung với ký ức, với tiếng khóc của chính mình trong đêm, với câu hỏi lặp đi lặp lại: “Giá như lúc đó mình dừng lại một giây thôi…”
Nhưng đời không có chữ “giá như” cho những tội lỗi đã thành hình.
Ngày viết lá thư gửi ra ngoài, tay anh run run. Anh viết rất chậm, như thể mỗi con chữ đều được nhúng trong nước mắt:
“Tôi không viết để xin được tha thứ, vì tôi biết mình không xứng đáng. Tôi viết chỉ để mong rằng, từ câu chuyện của tôi, sẽ có một ai đó kịp dừng lại trước khi quá muộn. Ghen tuông không phải là tình yêu. Nóng giận không phải là can đảm. Và bạo lực không bao giờ là cách giải quyết một nỗi đau.
Tôi đã đánh đổi bốn mạng người chỉ trong vài phút mất kiểm soát, và đánh đổi luôn cuộc đời mình. Xin hãy học lấy bài học này bằng lý trí, đừng học bằng máu như tôi.”
Khi gấp lá thư lại, anh bỗng thấy lòng mình lặng đi. Không nhẹ nhõm, không thanh thản, chỉ là một khoảng lặng hiếm hoi sau những ngày dài giằng xé. Anh biết, lời nhắn của mình có thể chẳng cứu được ai. Nhưng nếu chỉ một người, ở đâu đó ngoài kia, đọc được và kịp buông cơn giận xuống… anh tin rằng linh hồn những người thân đã mất của anh cũng sẽ bớt đi một phần u uất.
Sáng hôm sau, anh xin gặp quản giáo. Anh nhờ chuyển lá thư đi, rồi cúi đầu nói một câu rất khẽ:
“Tôi không mong được sống. Tôi chỉ mong đừng còn ai phải chết như họ… và chết như tôi, trong chính phần người của mình.”
Ngoài song sắt, nắng buổi sáng chiếu vào một vệt dài mong manh trên nền gạch. Anh đưa tay chạm nhẹ vào ánh sáng ấy – lần chạm cuối cùng của một con người đã đi quá xa trong bóng tối, và chỉ kịp thắp lên một lời nhắn gửi muộn màng cho những người còn đang sống.

CHIA TAY HOÀNG HÔN - Pham Bắc -SPSaigon K. 13

CHIA TAY HOÀNG HÔN

Nắm chặt đời nhau để giã từ
Em về đem cả nỗi tương tư
Từ đây đôi ngả mang niềm nhớ
Nhạt bóng hoàng hôn vẫn đợi chờ...
(Tranh của Ryan Nguyen lớp Nhất 5, khoá 13, SPSG)

Mời Xem  CÁC BÀI KHÁC CỦA PHẠM BẮC :

MỘT KHÚC SÔNG XƯA

HƯƠNG XƯA

NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG THỂ NÀO QUÊN -

THĂM LẠI CHỐN XƯA

Bức Tranh Cổ - Thủy Lâm Synh

 

Chú tôi là người ưa sưu tầm tranh cổ, chưa lần nào ông lại sung sướng như lần nầy vì ông đã mua được một bức tranh mà ông tin rằng đó là bức tranh vô giá.

Câu chuyện đưa đẩy chú tôi đi đến việc mua bức tranh khá giản dị. Ông nghe đồn có một người lạ vừa dọn tới làng nầy ở. Người ấy đã không chịu nổi cảnh túng thiếu của gia đình trong những ngày năm hết – tết tới, nên phải bán bức tranh gia bảo đó đi. Cũng có người bắn tiếng rằng bức tranh cổ đó đã có nhiều người dù nài nỉ mua với giá cao, nhưng người hàng xóm mới dọn tới nầy vẫn không thể bán vì lẽ những lời trối trăn của nội và cha ông ta cứ văng vẳng bên tai: “dù cho khổ sở đến đâu cũng đừng nên bán bức tranh nầy bởi nó là vật gia bảo của giòng họ nhà ta. Trên thế gian nầy sẽ không bao giờ tìm được bức thứ hai”.

Nghe láng giềng đồn đãi như thế, tính hiếu kỳ của chú tôi thêm kích thích nên ông thường lân la tới làm quen với người hàng xóm mới nầy. Điều đó hơi lạ bởi vì trong làng chú tôi thường chỉ giao du với nhóm thượng lưu, địa chủ. Nay chú tôi lại la cà đến một túp lều đơn sơ như thế nầy khiến thiên hạ xầm xì. Sau thời gian tới lui tâm sự, chú tôi được biết người hàng xóm mới nầy nguyên trước ở một huyện khác, nhà ông ta lại gần bờ con sông. Trận lụt lớn của mùa đông vừa qua đã trôi đi ngôi từ đường của giòng họ nhà ông ra biển. Đồ đac trong nhà đều bị nước cuốn phăng đi. Người hàng xóm cho biết ông phải tranh đấu vô cùng vất vã với cơn nước xoáy mới giành lại được chiếc rương gỗ đựng giấy tờ, khế ước ruộng nương và trong dó có cả bức tranh mà lâu lắm ông quên khuấy đi. Giọng người hàng xóm trở nên bùi ngùi như tiếc của cải đã mất mát, đôi mắt ông ta chớp lia, hai môi mím chặt để khỏi bật lên tiếng khóc, nếu ai để ý sẽ thấy chú tôi thoáng xúc động.

Và mỗi lần chú tôi đến chơi, người hàng xóm dù đang bận việc như chẻ lạt, đánh tranh cũng ngừng tay chạy vào nhà lôi ra bình trà nóng đang dựng trong vỏ trái dừa khô, hai cái ly vàng ố như lâu ngày không rửa. Đặt ly và bình trà trên chiếc bàn thô thiển ngoài hiên rồi rót nước mời chú tôi. Đối với chú tôi, loại trà nầy ông thường không thèm uống, nhưng người hàng xóm lịch sự quá thành ra ông cũng hết chén nầy đến chén khác. Chú tôi lung khởi nhập đề để xin xem bức tranh mà ông đã từng nghe kể lại. Như thông cảm được ý chú tôi, người hàng xóm mời ông vào trong, và mời chú tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu đang đặt giữa nhà. Người hàng xóm vào trong mở rương dài lấy ra bức tranh treo lên cái đinh đóng sẵn trên vách đất phía bên phải bàn thờ gia tiên. Nhìn sơ qua bức tranh, một buổi hoàng hôn ảm đạm, lòng chú tôi đã nảy ra ý khinh miệt, ông cho đó là tác phẩm của một tay họa sĩ rất tồi – một cây tùng cổ thụ cành lá sum suê đứng nghiêng mình xuống ao như chờ trăng lên soi bóng. Nhưng ánh trăng non vẫn núp sau cây tùng chỉ phản chiếu loang loáng trên mặt nước gợn lăn tăn nhiều vòng tròn như tự dưới ao một con cá đang trồi lên đớp mồi. Nền trời tím thẫm như than, một vài vì sao lấp lánh. Một loại tranh dân gian không đặc biệt, nhái lại các bức tranh Tàu đã có tự ngàn xưa mà chú tôi đã thấy treo nhan nhản ngoài chợ. Cái ý khinh khi còn trong trí chú tôi, ông thầm nghĩ “Chắc khó ba đời, nên họ cho bức tranh nầy là quý chăng!”. Tuy nghĩ vậy, nhưng cái đặc biệt của bức tranh ở chỗ chẳng có gì đặc biệt lại khiến chú tôi phân vân muốn tìm hiểu thêm. Cũng giống như khi xưa có nhà toán học cứ cắm đầu chạy theo mảnh ván nhỏ của chiếc xe ngựa để cố chứng minh một định đề chưa khám phá ra.

Ấy vậy mà sau nhiều ngày lui tới nhà người hàng xóm, chú tôi như ngộ ra vì đã tìm được giá trị thực của bức tranh mà ông nghĩ rằng vì mãi cất trong rương nên người chủ của nó hiện tại không hề hay biết. Hơn nữa, “một gã nông dân thất học như hắn làm gì biết thưởng thức tranh cổ”. Chú tôi nghĩ bụng như thế nên đưa ra đề nghị cùng người hàng xóm xin nhượng lại bức tranh với giá 200 lượng bạc, tương đương với ba mẫu ruộng tốt thời đó. Sau khi trả giá như thế, người hàng xóm chưa trả lời dứt khoát, chú tôi không đến nhà người hàng xóm nữa vì ông muốn chứng tỏ cho đối phương biết rằng không bán thì thôi chứ ông không tha thiết cho lắm. Quả nhiên người hàng xóm trúng kế chú tôi, ông ta gọi chú tôi đến để bán bức tranh nhưng đưa ra một điều kiện là khi nào làm ăn nên nổi ông sẽ mang tiền tới chuộc lại bức tranh theo thời giá. Dù chú tôi đã mê bức tranh đến độ đêm quên cả ngủ, ngày quên cả ăn, ông vẫn đồng ý ngay vì ông quan niệm rằng “của vô nhà khó như gió vô nhà trống”. Chú tôi còn chủ quan tin tưởng rằng cái nghèo sẽ đi theo người hàng xóm nầy đến hết cuộc đời, làm sao mà ông ấy có tiền để chuộc lại bức tranh, hơn nữa; chắc gì lúc ấy giá trị bức tranh là con số 200 lượng. Đó là những lý do khiến chú tôi đồng ý ngay để người hàng xóm giao bức tranh cho ông càng sớm càng tốt. Được thế, theo chú tôi đây là bức tanh quí giá nhất so với vô số tranh cổ đang có trong nhà chú tôi.

Tiền trao cháo múc, người hàng xóm nhận tiền, chú tôi đem tranh về. Cả đêm đó ông trằn trọc mãi, ông nghĩ thầm nếu giá 400 lượng ông cũng mua chứ đừng nói chi 200. Danh lam gặp khách hữu tình, bức tranh quý như thế mà thưởng thức một mình thì quả vô vị. Nhân cơ hội nầy, chú tôi làm một bữa nhậu, ông mời những người cùng sở thích về nhà uống rượu, ngồi xem bức tranh thần diệu đó. Chú tôi đánh cá những người bạn thử xem ai biết được sự thần diệu của bức tranh. Mọi người đều hớn hở, cố mở to mắt tìm xem cái độc đáo của nó, ai cũng nghĩ là mình sẽ tìm thấy cái giá trị mà chú tôi chưa tiết lộ vì họ đều là tay sành về tranh cổ. Chiếc đồng hồ quả lắc treo cạnh bàn thờ đổ mấy lần, bình rượu rót thêm bao lần cũng đã vơi. Mọi người đều uể oải nhưng bức tranh vẫn kênh kiệu không chịu thố lộ nét gì kỳ bí. Nó chễm chệ chiếm một vị trí quan trọng nhất trong phòng khách nhà chú tôi mà vẫn im lìm phong kín bí mật. Ngọn đèn tọa để trên bàn như ráng sức tỏa ra ánh sáng nhiều hơn để giúp những cặp mắt trọng tuổi, nhưng xem chừng những đôi mắt ấy vẫn chưa tìm được điểm gì đặc biệt. Đâu đó tiếng gà đã gáy, nỗi thất vọng toát ra trên từng gương mặt vốn đã khắc khổ nay trông càng thêm chảy dài. Có người đưa tay cầm tách trà nguội đổ vào miệng nuốt ực rồi từ giã, mấy người khác cũng đứng dậy theo, chào tạm biệt chú tôi, cũng có người hẹn đêm mai thế nào cũng tìm ra manh mối. Nhưng đêm mai và nhiều đêm mai nữa, không ai tìm thấy chút gì khác biệt trên bức tranh cổ đó. Và không cần tinh mắt lắm ai cũng thấy gương mặt chú tôi bắt đầu toát ra nỗi bàng hoàng.

Những người bạn của chú tôi đều chịu thua, có người tự trọng xác nhận mình già nên không còn tinh nhuệ như xưa, cũng có người ra vẻ phong độ nhưng lại đổ thừa cho những ngày cuối năm tâm trí bận rộn việc tết nhứt. Tuy vậy ai cũngï mong được chú tôi mách nước cho cái thần bí mà họ đoan chắc rằng ông đã khám phá. Miệng chú tôi đắng chát, ông hớp ngụm rượu đã bay hết hương vị rồi kể:

“Nghe người hàng xóm mới dọn tới có một bức tranh ảnh cổ, tôi đến xem chơi cho biết. Theo lời yêu cầu của tôi, người ấy lấy bức tranh treo lên vách đất và bảo rằng đó là bức tranh của ông nội để lại. Theo ông ta kể thì cả ông nội và cha ông ấy đều căn dặn rằng dù cho hoàn cảnh khó khăn thế nào cũng đừng bao giờ bán bức tranh ấy, riêng ông ta thì không biết nó quý ở chỗ nào. Thực tình lúc đầu tôi cũng không thấy cái gì đặc biệt, nhưng vì óc tò mò và sở thích tranh cổ đã khiến tôi ghé qua nhà người hàng xóm thường xuyên hơn. Tôi để ý bức tranh nhiều ngày mới hay là mặt trăng phía sau cây tùng lớn dần theo những ngày trước rằm và non dần theo những ngày sau rằm mỗi tháng. Đó là lý do khiến tôi nài nỉ ông ta để mua lại bức tranh dù ông ta không hề có ý bán nó, nhưng từ khi đem về cho đến nay như mấy anh đã thấy, mặt trăng núp sau cây tùng trong bức tranh không có gì thay đổi cả. Chắc tôi phải ghé lại ông hàng xóm hỏi cho ra lẽ.

Vừa qua khỏi tết chú tôi trở lại nhà người hàng xóm. Ông định bụng sẽ hỏi thăm thêm về gốc gác bức tranh. Sau bao lần chú tôi gọi cửa không có tiếng trả lời, thấy cánh cửa chỉ khép hờ chú tôi đẩy nhẹ bước vào nhà. Trên chiếc chõng tre không trải chiếu, một đống tranh vẽ chừng ba mươi tấm giống y như bức tranh chú tôi đã mua, chỉ khác nhau hình dáng mặt trăng núp sau cây tùng. Không đầy một tuần sau, chú tôi ngã bệnh qua đời, khi tẩn liệm người ta còn thấy bên khóe miệng chú tôi còn rỉ ra một vệt máu. Biết đâu chú tôi đã để lại tất cả, nhưng sẽ mang theo hình ảnh người hàng xóm thất học và bức tranh cổ xuống đáy âm ti.

Thuỷ Lâm Synh

Posted by 304Denat 4:35 PM

3 thg 12, 2025

XÓM CŨ _ Nguyễn Phúc Nguyên - Sư Pham Saigon

 


Xóm Cũ

Chiều ấy, sau hơn hai mươi năm rời xóm cũ, anh quay lại như một người khách lạ. Con hẻm vẫn hẹp, bức tường rêu vẫn loang lổ dấu mưa, chỉ có thời gian là đã đổi khác tất cả. Anh không dám đi thẳng vào, chỉ đứng nép bên kia đường, sau một gốc bàng già mục ruỗng, nhìn sang đầu hẻm.
Và rồi anh thấy chị.
Người phụ nữ năm xưa anh yêu thầm suốt một thời tuổi trẻ. Người con gái từng đứng dưới giàn hoa giấy mỗi chiều, tóc dài chấm lưng, cười lên là cả xóm như đầy nắng. Bây giờ chị ngồi bên một sạp trái cây nhỏ, những rổ ổi, rổ xoài bày vội trên tấm bạt cũ sờn. Mái tóc ngày nào đen nhánh giờ lốm đốm bạc. Lưng chị khom hơn trong từng cử động mệt mỏi.
Bên cạnh là chồng chị. Một người đàn ông to béo, nước da sạm nắng, khuôn mặt lúc nào cũng có vẻ cau có. Anh ta vừa cân trái cây vừa lớn tiếng quát con. Hai đứa con trai đứng phụ, vụng về, chậm chạp. Người thì bốc nhầm, người thì làm rơi, bị cha gắt gỏng không tiếc lời. Nhìn cách chúng cúi đầu im lặng, anh hiểu: chúng không phải là niềm tự hào, mà chỉ là thêm một nỗi buồn của đời chị.
Tim anh chợt thắt lại.
Ngày xưa, nếu anh đủ can đảm nắm tay chị, nếu anh nói ra những điều cất giấu trong lòng, liệu cuộc đời chị có khác không? Câu hỏi ấy lại trở về, chậm chạp mà nhức nhối. Khi ấy, anh chỉ là một chàng trai nghèo, rụt rè. Còn chị, đẹp và được nhiều người theo đuổi. Rồi chị lấy người đàn ông này – là con trai một gia đình khá giả trong xóm – như một lẽ tất yếu mà ai cũng cho là “ổn”.
Còn anh đi xa, bôn ba, lập nghiệp. Anh có một gia đình yên ấm, một người vợ hiền, những đứa con ngoan. Cuộc sống của anh, nhìn từ bên ngoài, là điều mà nhiều người mơ ước. Vậy mà giây phút này, đứng trước hình ảnh người phụ nữ năm xưa, anh lại thấy mình hụt hẫng đến lạ.
Không phải vì anh muốn quay về. Không phải vì anh còn mơ mộng điều gì cho mình. Mà là một nỗi xót xa lặng lẽ, giống như khi ta chạm vào một mảnh ký ức cũ đã sứt cạnh, không đau nhói, nhưng buồn rất lâu.
Chị vẫn cười với khách mua. Một nụ cười mỏng, quen thuộc, nhưng không còn trong veo như ngày trước. Có lúc, chị ngẩng lên nhìn dọc theo con hẻm, ánh mắt vô tình lướt qua phía anh đang đứng. Hai ánh nhìn suýt chạm nhau. Tim anh đập mạnh. Nhưng chị không nhận ra. Hoặc có thể nhận ra, nhưng đã không còn muốn biết.
Anh quay mặt đi.
Trong túi anh, chiếc điện thoại rung lên. Tin nhắn của vợ: “Anh về chưa? Cả nhà đang đợi anh ăn cơm.” Một dòng chữ bình thường, nhưng lúc ấy lại ấm hơn bao giờ hết. Anh chợt thấy rõ vị trí của mình: anh thuộc về một cuộc đời khác, không còn nằm trong con hẻm này nữa.
Anh rời đi, không quay đầu lại.
Phía sau lưng anh, tiếng rao trái cây vẫn vang lên đều đặn, mỏi mệt. Một đời người tiếp tục trong nhọc nhằn. Còn trong lòng anh, một câu chuyện cũ khép lại lần nữa — lặng lẽ, không lời từ biệt.
Trên đường về, anh thấy mắt mình cay. Không phải vì tiếc nuối tình yêu đã mất, mà vì thương cho một phận người từng là cả một mùa nắng trong trẻo của đời anh… giờ đang gồng gánh mưu sinh giữa một chiều xám nhạt.
(npn)

Mời Xem Các chuyện Ngắn khác của npn