Gần nửa thế kỷ có chuyện muốn kể nhưng con chữ vừa ngọ nguậy trong đầu lại lỉnh mất tiêu. Thêm già hay đái tật, đái đây chả hẳn là…”đi đái” mà là…“đeo”. Bởi đeo cái tật…quên, nên chuyện kể thành truyện viết sau một thời gian dài thế nào chả quên dăm chi tiết vụn vặt, vì vậy chỉ ngại bạn đọc chửi tắt bếp. Với bếp lửa, tối nay không ngủ được, số là hồi chiều, thằng rể mời bố vợ đi ăn. Thế là giấc mộng từ chương nhẩy bổ vào đầu, bèn bật đèn lên...
Tất cả bằng vào hai chữ…“Ba Lan”.
***
Qua 47 năm cùng hai quên một nhớ…Ừ thi hãy về lại thăm thú trại tỵ nạn năm 75 để có chút quá khứ vị lai...Ngày ấy nằm trong trại tỵ nạn, tôi cứ ngỡ Camp Pendleton ở…thung lũng hoa vàng San Jose. Nói dối phải tội, để…”kỳ cổ”, mãi sau này lọ mọ vào mạng lưới tôi mới biết trại ở San Diego của Thủy quân lục chiến Mỹ. Trại có tám khu lều vải và khoảng hai chục ngàn người.
Nằm trong lều thấy có chuột thậm thụt, hỏi ra mới hay bà con ta mang cơm về lều dự trữ. Nhất là hôm nào có cá, vì Mỹ “luộc” cá tanh…tức tưởi. Nhưng hôm nay có gà chiên, bà con ta xếp hàng rồng rắn lên mây cả trăm thước nên phải đi sớm. Được thể tôi vun chuyện năm 75, tiếng Tây tiếng u tôi tha ma mộ địa lắm. Trong trại Pendleton, tôi lò dò bách bộ xếp hàng đi ăn. Va vào mắt cái xe đẩy như xe cà-rem lại bán…Rootbeer, ngỡ “beer” là…bia, bèn mua uống và ớ ra…
Bao lâu sau được ra trại tới nhà bảo trợ không nhớ. Ấy là chưa kể đất sinh cỏ trời sinh tật, tôi còn có tật lớ ngớ nữa mới thành chuyện. Chuyện là tới phi trường muốn mua “Coca Cola”, bạn trong trại tỵ nạn mách nước…nước Mỹ không gọi “Coca Cola” mà là “Coke”. Bèn láo ngáo gọi...“cốc”. Hốt nhiên thấy cô bán hàng mặt đỏ cay đỏ cợt, mấy năm sau đốn ngộ ra đành hỡi ơi (xem tr 5). Bước lên cầu thang máy bay, cô tiếp viên hỏi: Mày ăn meal và hít smoking không. Rất thản nhiên “meal” tôi nói “No” vì nghe lờ quờ là...“milk”. Còn thở ra khói thì “Yes”. Cô tiếp viên nói vọng vào rõ to với cô tiếp viên ở trong: Thằng Chino này không ăn nhưng biết…hút.
Tôi quắn đầu nghĩ không ra sao cô ta gọi tôi là... ”Chino”. (xem khúc kết)
Bạn đọc lậu bậu quên đi thung lũng hoa vàng, lất phất qua những ngày tháng chân ướt chân ráo vui hơn. Vui đâu chả thấy chỉ thấy cái phi trường bé tí tẹo như phi trường Biên Hòa, lếch thếch cuốc bộ trên phi đạo vào khu lấy hành lý buồn tênh. Hai là thị xã tôi “ngụ cư” nhỏ như Pleiku đi dăm phút đã về chốn cũ, một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng. Mãi sau này mới hay hớm phố thị loe ngoe mấy ngàn dân. Họ ăn nhờ ở đậu hai khách sạn mà ngày ấy tôi không chịu hiểu cụm từ “second honeymoon” là thống khoái gì. Thành phố được nhiều người biết qua hai khách sạn với phòng ngủ bốn bức tường, sàn nhà và trần nhà đếu lát gương. Vì đã có đạo diển làm phim với cảnh trí: Có cụ ông cụ bà dắt díu nhau nhập…động hoa vàng. Qua sáu cái gương bự sự, người ngợm họ như Tôn Ngộ Không hoá phép cả ngàn Tôn Ngộ Không khác nên hai cụ chả biết đâu mà lần…lần mò tới cái giường.
“Đi dăm phút”…là tới tiệm hớt tóc. Vì từ 30-4 cho đến ngày chọn mảnh đất tạm dung này, tôi chưa cắt tóc nên rất…”hippy”. Ngồi lên ghế, ông phó cúi hỏi cắt kiểu cọ nào, nhưng tôi không chịu…hiểu Chả lẽ không biết làm gì là làm thinh, đành ngó lơ trên tường treo tấm ảnh The Three Stooges, phim thằng anh Larry hay véo tai hai thằng em. Ông phó cúi nhìn theo làm như hiểu ra, cầm kéo tách tách một thôi một hồi: Một tôi hoá kiếp in hịt thằng Larry có mái tóc như…cái nồi chụp lên cái đầu.
Vào “một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng”, một bữa tôi…bâng quơ ra phố, vồ được cái “bar” của Sài Gòn xưa cũ. Bèn vào. Leo lên ghế (stool) cao ngất nguởng. Dòm trước mặt chai bia có tên quen thuộc Budweiser. Lại bạn trong trại tỵ nạn đẩy đưa sống trên đời ăn miếng dồi chó mà cứ theo bạn ta…dồi chó Mỹ nó gọi là…hot dog. Dòm quanh quất chả thấy…chó gì sất. Vì không đủ chữ nhét răng, bèn “cơm chỉ”…chỉ cục thịt khô dài như cái đũa (beefstick). Đành nhai. Làm chai nữa cho tiêu sầu vạn cổ, chợt nghĩ sao ngồi một mình ở đây! Thế là rất ngon lành oà lên khóc hu hu. Chỉ tội cho thằng “bartender” mặt cứ thộn ra. Bởi thằng này đâu có hay nỗi vong gia thất thổ của một tôi,…một dân Chàm vừa mất đất.
Bây giờ kể chuyện về người bảo trợ, tôi gọi là “nó” cho gần gũi. Ngày qua Guam, nhìn chiếc xe Pinto đã hãi lắm rồi. Nay dòm chiếc Cadillac 8 máy cũ kỹ của nó còn khiếp hơn nữa. Nói theo người Nam to “bành ky” như ngồi trong…ghế bành vậy. Xe cũ rích vậy đấy nhưng như ngồi trên mây cưỡi gió. Đường về thành phố Chino trời tối, nhìn đuôi xe trước đèn đỏ, ngó sang đường ngược chiều đèn đuốc hoa cả mắt. Từ trên đồi nhìn xuống đàn bỏ cả ngàn con, cổ bò đeo đèn lung linh ẩn hiện trong bóng đêm. Tôi ngỡ sao trên trời,…phiêu diêu mình ở cõi trên nhìn xuống hạ giới.
Thiên đường đâu chả thấy, ít lâu sau thằng tôi đi…cầy như hạc.
Buổi sáng thằng bảo trợ chở tôi đi cầy. Chiều về vì khác giờ giấc nên phải cuốc bộ bốn, năm dặm đường. Đường hai “lên” xe cộ vắng tanh, nhà cửa cách nhau cả một cánh đồng như…đồng Ông Cộ. Tôi có…“cảm giác” cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân, hiểu hiu hắt là đường nhỏ gió lạnh thổi vào…một tôi, trong khi trời nóng như đổ lửa. Nhưng không nóng bằng “sở làm” là…xưởng giặt ủi quần áo. Xưởng to như “hangar” máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, mái tôn, trống hóac, lại gần sa mạc nên nóng kể gì. Ấy là chưa kể máy ủi quần áo phà hơi nóng…nóng như lò bễ.
Về ăn uống sướng kể hết biết, mấy tuần đầu chưa đi làm. Ngày nào cũng trưa đại táo, chiều tiểu táo, bàn ăn trải khăn trắng toát, dao nĩa sáng choang, tôi tha hồ vật lộn với dao nĩa kêu lỏang xỏang. Cuối tuần, thằng bảo trợ chơi màn nướng thịt ngoài trời. Tay cầm chai Corona có lát chanh cắm ở miệng chai. Thấy tôi ngớ ra. Nó khẽ đánh mắt một cái và chỉ tôi uống bia với…muối. Cho đến một ngày…
Ấy là cái ngày nhà tôi đi đẻ. Số là bu nó có mang tức…mang cái ba lô ngược từ sau ra trước, đâu đó được mấy tháng…không biết. Mấy tháng sau tìm ổ đẻ đái, nhè vào thời gian này chưa có chương trình giúp đỡ của chính phủ. Vào đến nhà thương, họ chỉ dẫn thằng bảo trợ chạy tới cơ quan chính phủ để làm giấy tờ. Sế chiều về lại thấy nhân viên văn phòng đợi sẵn và nói…“OK”. Hai chữ OK đầu đời, tôi hiểu ngay đơ là mình có…con rồi. Họ hỏi đặt tên con là gì? Trong cái khoảng u u minh minh ấy, vì bối rối như sư đẻ nên đặt tên con bằng vào tên…người xưa. Lát sau nhà tôi hỏi: “Anh vẫn nhớ Cẩm Hà?”. Thôi thì cũng đành im ắng…
Sau đấy tháng ba ngày tám, ăn đong ăn vay với nhiễu sự…
Nhiễu sự một buổi đi làm về, nhà tôi cách rách rằng như trong nhà thương, vợ thằng bảo trợ vừa chỉ bảo cho nhà tôi cách nuôi con ở Mỹ thay tã, và nằm sấp. Vợ nó vừa vắn hai dài một: Không có tiền trả điện thoại. Hỏi nhiêu: 10 đồng một tháng. Nhà tôi hỏi tới cu ti tỉ muội mới vỡ nhẽ ra là…
Là bố thằng bảo trợ gốc Ba Lan đã về hưu, nghe người Việt tỵ nạn qua đây. Ông ới thằng con: Tao tỵ nạn ở Mỹ từ năm 54 như họ. Bây giờ tao già rồi. Mày thay tao giúp đỡ họ được chăng. Thế là vợ chồng thằng bảo trợ è cổ mang vợ chồng tôi về nuôi báo cô. Trong khi nó làm cái nghề xưa như trái đất ở Mỹ là đi gõ cửa từng nhà để bán dao làm bếp có mà ăn cám. Nghĩ đến cái thằng số ăn mày bị gậy phải mang nên mỗi hai tuần tôi đưa nửa tiền lương để phụ với vợ chồng nó. Sau đó sẽ…“di tản chiến thuật” về Houston là đất mới của tòan gia…“quê vợ”. Về thành phố lớn, đi làm ngay vì anh em bên vợ ai nấy mỗi người lãnh một tiệm “grocery” U-Totem. Đúng là tiệm ”thực phẩm”, vì đồ nguội và rau cải nhiều như nêm cối, sáng chủ nhật nhà tôi tới, de đít xe vào là xong. Ấy là chưa kể sau lưng tôi có một…“kho tiếp liệu” thuốc lá, và một…“kho đạn” bia. Từ đó tôi thảnh thơi hít thuốc lá có mùi nhang và tu bia chùa mệt nghỉ.
Với bia bọt, để bút ký…”có trọng lượng”, tôi nhồi nhét những mảnh đời “chân ướt chân ráo” vào đây. Bởi chưng khỏang thời gian giữa năm 75 và 80, vừa mới đứt phim, một lũ tụi tôi như những cánh chim tan tác gọi nhau họp đàn. Cứ chiều thứ sáu không hẹn mà gặp, không gọi mà đến…đến quán nhậu. Thằng nào ra sớm ngồi đợi đấy, làm một hai chai dằn bụng cho ấm lòng kẻ tha hương người lữ thứ. Quán mì của anh Tàu Chợ Lớn vừa mới tưng bừng khai trương đã có âm hưởng âm thầm đóng cửa. Như luật bất thành văn, vào độ, mỗi khứa thay nhau làm một “round” bia, tiền trao cháo múc, cười nói vung vít, nước miếng văng mệt nghỉ. Quán có món nhậu chính là xíu quách, tay nào chịu chơi bắt đĩa bò lúc lắc hay gà xé phay. Tất cả nằm trong những ngày tháng sa cơ lỡ vận nơi đất khách quê người, thưa bạn đọc.
Bởi sa cơ lỡ vận lại điếc không sợ súng, thổ ngơi thằng nào cũng gần kho đạn Long Bình. Thiếu úy Sư đòan 1 qua đến Guam lên trung úy, tới Camp Pendleton đặc cách đại úy. Khỉ một nỗi mỗi lần đổi trại, là mỗi lần đổi quân binh chủng có lửa như Lực lượng đặc biệt chốn biên thùy, hay Biệt kích nhẩy qua bên kia biên giới, ông cố nội ai mà mò ra. Nghe tức như bò đá, giữa đám ba quân chẳng lẽ lật tẩy nhau, nhờ anh tí, anh chơi khó quá, bộ Nghĩa quân, Địa phương quân để cho chó gặm à. Bán trời không văn tự là quan ba tầu bay L 19, ngày 30-4 đáp máy bay nhấp nhổm xuống xa lộ Biên Hòa. Người tình lái xe Honda đuổi theo sau. Mẹ kiếp! Nổ vừa phải thôi quan anh, quan anh lái máy bay như đạp…xích lô không bằng. Bạn nhậu nể quá mạng, bèn dòm kỹ hơn xem khứa đeo lon lá gì thi khứa đeo…kính cận. Kẹt một nỗi, cố tật của mấy ông cố nội này là hay…quên. Vì nổ nhiều quá mạng sao…nhớ nổi mới rõ khổ. Khổ là khổ cho mấy thằng nghe, như ở trên trời rơi xuống như lính…nhảy dù vậy!
Trở lại tiệm U-Totem, một ngày xếp lớn cầm quả táo hỏi bán bao nhiêu. Tôi quại bừa 40 cent. Vì một nhớ hai quên 37 cent 1 gallon xăng, 50 cent 1 bao thuốc lá. Thế là xếp cho nghỉ việc. Bắt quàng sang chuyện học sinh ngữ. Bởi tiệm có bán Playboy, Penhouse nên đọc mấy chữ tiếng Tây tiếng u để …sinh ngữ sinh tồn. Nay mới ớ ra ngày ở phi trường San Diego (?) cô bán hàng mặt đỏ như gấc vì tôi phát âm, phát ngôn “coke” là…“cock”. Chẳng qua…cock là con chim có…đầu mà không có…chân.
***
Từ nhĩ văn mục đồ tức tai nghe mắt thấy ngày nào ở phi trường. Tôi muốn trở về những ngày đầu tới Houston, với hàn mặc thế gia, tức gia tộc bút nghiên nghèo lõ đít như thế này đây. Ngay ngày hôm sau, chị em dẫn nhà tôi đi thuê phòng. Cuối tuần đi ”gara sale” mua được cái TV đen trắng y xì ở Sài Gòn, bật lên có cái hình tròn méo xẹo và phải đợi một hồi lâu mới…“hiện hình”. Một bộ bàn ăn bốn chỗ ngồi nhưng chỉ còn ba cái ghế xộc xệch và cái nệm trải trên sàn nhà cho ba người.
Một tối nằm trên nệm trải dưới đất, con ở giữa, hai vợ chồng hai bên. Đang ngẫn ngẫn với quá khứ vị lai là vừa đi làm được mấy ngày êm ả như đời nở hoa xuân. Chẳng như ai đó ngày nào nằm trong trại tỵ nạn Pendleton hoài đồng vọng qua dòng nhạc thấy hoa mai nở không biết xuân về hay chưa và thiếp đi lúc nào không hay.
Ngày thứ mười, 4 giờ sáng, chuông đồng hồ báo thức reo…
Nhà tôi gọi dậy và hốt hoảng: “Con chết rồi, anh ơi”. Nghe chữ “chết”. Thế là tôi bung ra khỏi cửa kêu gào thảm thiết, chẳng biết mình kêu gì nữa. Những phòng bên cạnh lục đục sang thăm hỏi nhưng biết nói gì với họ đây. Nếu có muốn nói chỉ biết chỉ vào xác con và ra hiệu bằng tay. Nhốn nháo trong giây lát, có người về phòng gọi cảnh sát và quản lý chung cư. Khoảng mươi phút xe cứu thương, xe cứu hỏa, cảnh sát và bà quản lý đến. Họ nói chuyện và làm giấy tờ với nhau. Lát sau xe cứu thương chở cháu đi, Bà quản lý và hàng xóm kéo nhau ra sân tụm năm tụm ba thì thầm to nhỏ. Thỉnh thoảng bà vừa nói chuyện vừa nhìn về phía tôi…
Gần sáng anh chị em bên ngoại tới, họ cho biết cháu mất ở nhà nên phải mang vào nhà xác thành phố để khám nghiệm, sau ít ngày có kết quả mới được chôn cất. Chuyện chôn cất bà quản lý và hàng xóm chung cư lo gánh vác, tôi không phải lo nghĩ gì cả. Trong khi chờ đợi, tôi nhờ họ hàng gọi điện thoại báo cho vợ chồng thằng Ba Lan. Hôm sau, cũng nhờ bà quản lý qua họ hàng tôi mơi rõ về cái chết của cháu: Vì cháu nằm sấp nên bị ngộp thở. Mỹ họ gọi là “crib-death”, là chết trong nôi. Kiểu nằm này ít lâu sau bãi bỏ vì mỗi năm có cả trăm trẻ sơ sinh bị crib-death.
Vợ thằng Ba Lan tới, nhà tôi đi với anh chị em ra phi trường đón. Còn tôi theo bà quản lý tới nhà quàn làm giấy tờ. Nửa tiếng sau bà quay sang tôi nói “OK”. Biết nói gì hơn vì đây là chữ…OK thứ hai trong đời, với…cháu. Tôi hiểu là mọi chuyện đã xong. Ngày đưa cháu ra nghĩa trang xa thăm thẳm ở ngọai ô thành phố với đồng không mông quạnh. Ngoài nghĩa trang trời đất mưa lâm thâm, vợ thằng Ba Lan co rúm người lại vì nó quên mang theo áo lạnh. Tôi phủ cái áo có những quả trám nổi u lên của trại tỵ nạn cấp phát lên vai nó, cái lạnh cuối tháng 11 làm tôi rét run. Bà quản lý cầm ô che cho nhà tôi, cả hai đều sụt sùi. Phu nhà quàn lặng lẽ làm việc…Vào lúc hạ huyệt, im ắng, nhìn quan tài từ từ hạ xuống lòng đất, trong tôi trống rỗng, không cảm giác. Vì những xáo trộn dồn dập nên khô cạn, muốn khóc nhưng không có nước mắt.
Ngày về, tôi hỏi vợ thằng Ba Lan có tiền không. Lắc đầu. Trong túi có mớ tiền của anh chị em họ hàng quyên góp, tôi lấy ra một nửa dúi vào tay nó. Vợ thằng Ba Lan quay sang ôm tôi và thì thầm không ra tiếng:…“Happy Thanksgiving”.
***
Vợ thằng Ba Lan về trong một ngày trời quang mây tạnh, mọi chuyện rồi cũng đâu vào đấy, sau cơn mưa trời lại sáng. Trong tôi cứ lúi húi với đám tang có mưa thì hên. Nhưng chẳng hên gì! Chuyện qua sông ai nỡ quên đò thì…
Thì thêm một lần qua sông lụy…”đò”.
Cháu mất hơn mười năm, nhà tôi đi theo cháu vì ung thư. Qua hai năm rưỡi với một lương phải trả những khoản sai biệt bảo hiểm, xe, nhà. Thêm chục cái thẻ “cà” nợ như chúa Chổm, tôi phải khai phá sản. Một hôm ở bệnh viện, bác sĩ tìm tôi nói chữ “host…“ gì ấy nghe lóang thóang như…hospital. Rồi với một chút ngại ngần, ông cho tôi hay hãy lo chuyện hậu sự vì nhà tôi chỉ còn một, hai tháng nữa thôi. Về nhà tra tự điển thì sững người vì “host…“ là hospice, là nơi nhà tôi nằm chờ về với cõi.
Vì nhà tôi mất bất cứ lúc nào, bà cụ tôi nhờ cha tới nhà làm lễ sức dầu và bà dì lo việc ma chay. Bà là sơ trưởng của một dòng tu ở đây, bà tu học ở Mỹ ngành xã hội học trước 75. Bà cho hay về xã hội, mỗi nhà quàn họ có khế ước với chính phủ. Mỗt năm có bao nhiêu đám tang họ gánh cho những gia chủ không đủ sức lo được việc chung sự. Đúng như bà sơ nói, tới nhà quàn họ làm giấy tờ ngay. Chí có hai điều tôi không được chọn là áo quan đắt tiền và mộ bia đứng. Chiều 30 Tết, ai đấy thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ. Tôi lầm lũi một mình ở gian nhà quàn bán quan tài. Trong gian nhà quàn bán quan tài âm u thế nào. Thì chiều ba mươi Tết ngòa đường cũng âm u như vậy vì trời mưa tầm tã, mưa như thác đổ, để chẳng bao giờ quên…
Cũng để chẳng bao giờ quên cái tên nghĩa trang: Eatman Resthaven. Vì nghĩa trang và nhà quàn là của cháu 14 năm trước. Cũng có thể vì vậy nên nhà tôi được một ngoại lệ chưa bao giờ có ở nghĩa trang này: Mẹ cháu được nằm cạnh con trong khu đất cho nhi đồng có tên: “Baby Holyland”. Nghĩa trang như một khu rừng nhỏ, rộng mênh mông bát ngát, một lần tháng ba tôi lên thăm hai mẹ con, nhằm ngày lập xuân, lặng ngắm cỏ non trải dài. Đứng giữa trời đất bao la, tôi cảm hoài mang mang trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ, chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà, đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy, một bờ cỏ non một bờ mộng mị…trong một cõi đi về.
Tháng ba vừa rồi giỗ mẹ cháu, tôi đưa con gái lên thăm mộ mẹ. Con gái mua chùm bóng xanh đỏ buộc trên mộ. Con gái quên rằng cháu gái nằm kia là chị. Nếu bây giờ còn sống cháu 40 tuổi. Lẩm nhẩm ngày tháng trên mộ bia, cháu hưởng dương được 4 tháng. Thắp nhang, lại bùi ngùi thôi thì hai mẹ con cũng được gần nhau.
Sau đấy vì cơm áo gạo tiền, tôi quên tiệt vợ chồng thằng Ba Lan.
Năm nào không nhớ, tôi có việc qua Cali. Lái xe dọc theo đường rầy xe lửa, tôi nhớ như in dòm xa xa có cái cầu sắt ba nhịp cổ lỗ sĩ thời Đệ nhị thế chiến, i xì như cầu Bình Lợi (sáu nhịp), là tới thị trấn Chino buồn hiu nằm dưới chân đồi. Khi này tôi mới đốn ngộ ra cô tiếp viên ngày ấy không gọi tôi là Vietnamita mà là…Chino. Vì tiếng Mễ Chino là…Tàu.
Quẹo trái vào con đường chỉ mấy trăm thước tôi nhận ra ngay căn nhà có cái cổng tò vò. Bấm chuông, gặp một bà già, tôi nói đã từng ở Chino nhiều năm trước. Hoá ra bà cũng ở đây cùng ngày nào năm đó nên mua căn nhà này, nhờ vợ chồng thằng Ba Lan chia tay nhau, mỗi đứa mỗi ngả.
***
Như trên tôi đã bòn mót, tất cả bằng vào hai chữ…“Ba Lan”.
Chiều nay, con gái và thằng chồng ới vợ (mới) chồng tôi đi ăn tiệm. Thấy tiện nội u ơ với người phục vụ vì tiếng Tây tiếng u ngọng như tôi ngày nào. Thằng rể người bản địa gọi chai Rootbeer, tức…“Xá xị con cọp” như ở…trại Pendleton. Tu chùa chẳng bằng tu nhà, ăn ở thật thà mới là tu…bia thì tôi chịu đèn thằng này cũng thích…tu. Nó biết nhiều bia ngọai vì đi lính qua Đức nên gọi cho tôi bia….Ba Lan. Tôi ngớ ra vì chai bia bằng cổ tay có chữ “Larger“ to đùng. Mắt tròn dấu hỏi. Nó luận Larger chả phải...lớn hơn mà là...tiếng Đức: ”largerbier” là lọai bia vàng ảng, có chút mùi chanh. In hịt như Corona cắm miếng chanh mà thằng Ba Lan chỉ tôi uống bia với...muối.
Tối về thao thức không ngủ, cả một chuỗi quá khứ vị lai thức dậy trong tâm khảm, cùng những cái mốc thời gian: Nhà tôi mất tháng 3-1989. Trận chiến Ban Mê Thuột khởi đi tháng 3-1975. Tháng sau tan hàng. Từ chuyện này vắt qua chuyện kia, tôi lau lách không đâu tới chuyện đời thường…thường thì con người ta mất cái này, được cái kia. Qua sông ai nỡ quên đò, để tôi chẳng quên ông lái đò là ông bố thằng Ba Lan. Năm 54 bỏ nước ra đi, ông không quên cảnh đồng ngộ đồng thuyền với những người Việt di cư năm 54. Thêm một vũng tang thương nước lộn trời năm 75, vì vậy mới có ký ức này cho ngày 30-4-2025. Ừ thì cũng đã 50 năm rồi đấy…thưa bạn đọc.
Thạch trúc thảo lư
Ngộ Không Phi Ngọc Hùng
(bổ sung 2025)
Xem Thêm :GÃ THIỀN GIÀ - Ngộ Không Phí Ngoc Hùng
Bertha Benz cùng 2 con lái chiếc xe hơi đầu tiên 1888