31 thg 7, 2025

ÔN LẠI TIẾNG VIỆT ;Bài 1: PHẪN UẤT & PHẬT UẤT Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng

 

Lời ngỏ

Trong quá trình tìm hiểu và biên dịch các sách cổ điển về Khổng học ở Nhật Bản, người viết thường phải tra cứu để hiểu nghĩa chính xác của các từ Hán- Hòa, Hán- Việt. Đồng thời phát hiện cùng một từ nhưng có những trường hợp sau:

1) Có nghĩa được ghi chép trong các từ điển Hán-Hòa của tiếng Nhật nhưng không được ghi chép trong các từ điển Hán- Việt của tiếng Việt.

2) Có trường hợp nghĩa trong tiếng Việt và tiếng Nhật hơi khác nhau hoặc khác nhiều.

3) Có những chữ Hán cổ có trong từ điển tiếng Nhật mà không có trong từ điển tiếng Việt v.v…

Sẵn dịp người viết tra cứu và ghi chép lại để tự học, xin được giới thiệu đến quý độc giả có quan tâm hoặc hứng thú muốn tìm hiểu thêm hoặc muốn ôn lại tiếng Việt cùng sử dụng, gọi là “1 công 2 việc”. Tuy nhiên không biết tiếp tục được đến bao lâu. Nếu “giữa đường đứt gánh” xin được thông cảm mà tha lỗi cho.

***

1. Nghĩa của phật uất và phẫn uất

Sáng nay đọc bài đầu trong Luận Ngữ Trưng của Ogyu Sorai, khi giải thích ý nghĩa chữ “uẩn” 慍, tác giả dùng từ怫鬱, nghĩa chữ này có thể là “phẫn uất” chăng nên tra thử trên tra Từ Điển Hán Nôm của thivien.net nhưng không có! Bèn tra từng chữ Hán trong Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, thấy như sau:

 phật, phí (8n)

1 : Uất, phật uất 怫鬱 uất tức quá muốn làm cho toang ra.

2 : Một âm là phí. Bừng bừng, tả cái sắc nổi giận.

Ngạc nhiên, nghĩ chẳng lẽ “phật” bị biến thành “phẫn” sao? Nên tra thêm Đại Tự Điển Hán Việt của Trần Văn Chánh thấy như sau:

 phẫn

1: Giận, tức giận, uất ức, căm tức, tức tối, cáu. Thí dụ, khí phẫn: Tức giận; công phẫn: Công phẫn; phẫn thế tật tục: Giận ghét thói đời (ghét đời).

2 (văn): Ấm ức, tấm tức, bực tức. Thí dụ, bất phẫn bất khải (thiên Thuật Nhi trong sách Luận Ngữ): Nếu không ấm ức (muốn biết) thì sẽ chẳng gợi mở cho. (Lời của Khổng tử).

Nhận xét:

Không hiểu tại sao giải thích nghĩa của “công phẫn” là “công phẫn”?

Tra Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh thấy viết:

Công phẫn: lòng tức giận chung của công chúng (colère publique).

Tra đến đây biết Luận Ngữ Trưng dùng “phất” thay vì dùng “phẫn” nên tra lại Thiều Chửu thấy như sau:

 phẫn, phấn (15n)

1: Tức giận, uất ức quá gọi là phẫn.

2: Một âm là phấn. bực tức, lòng muốn hiểu mà chưa hiểu được đâm ra bực tức gọi là phấn.

Nhận xét: Theo giải thích của Thiều Chửu thì âm Hán Việt của憤trong Thuật Nhi- Luận Ngữ nói trên phải phiên “phấn” mới đúng! Bởi vì không phải “tức giận” (phẫn) mà vì “chưa hiểu được đâm ra bực tức” (phấn). Người viết thấy Thiều Chửu chính xác, hợp lý hơn. Thế mới biết âm Hán Việt và nghĩa chữ Hán rất khó hiểu đúng và chính xác! Cùng một chữ viết mà ý nghĩa và âm đọc thay đổi, không cố định.

Một điểm khác nữa giữa Thiều Chửu và Trần Văn Chánh trong trường hợp này:

Âm Hán Việt khác của怫 (ngoài âm phật), Thiều Chửu phiên là “phí” nhưng Trần Văn Chánh phiên là “phị”. Người viết không biết đúng sai là đâu nhưng Đại Tự Điển của Trần Văn Chánh mới xuất bản năm 2022 và rất công phu ghi nhiều nghĩa, nhiều trích dẫn, nhiều chữ Hán, trong khi của Thiều Chửu vào năm 1942 nên hy vọng phiên âm của Trần Văn Chánh hợp lý hơn.

Ngoài ra, tưởng cũng nên giới thiệu thêm như sau.

2. Khác biệt giữa tự điển của Thiều Chửu và của Trần Văn Chánh

2.1 Thiều Chửu

忿 phẫn (8n)

1: Giận cáu, nhân giận phát cáu, không đoái gì nữa gọi là phẫn. Như phẫn bất dục sinh 忿不欲生 tức giận chẳng muốn sống.

 uất (15n)

1: Uất kết, uất tức, khí nó tụ không tan ra, hở ra gọi là uất. Như uất kết 鬱結 uất ức, uất muộn 鬱悶 bậm bực, v.v.

2: Hôi thối.

3: Hơi xông lên, hơi nóng hun lên.

4: Uất kim 鬱金 nghệ.

 uấn (13n)

1: Mang lòng giận, hàm hận ở trong lòng gọi là uấn.

2: Tức giận.

2.2 Trần Văn Chánh

怫 phật

1: Buồn rầu, sầu muộn, u sầu.

2: Căm phẫn, phẫn nộ, giận dữ. Âm khác: phị.

怫 phị

1 (văn): Bực bội, buồn bực.

Nhận xét

Không hiểu tại sao nội dung giải nghĩa trên của “phị” lại là 1 của “phẫn” không phải là 2?

忿 phẫn (âm phấn quen đọc phẫn)

1: Tức giận, oán hận (dùng thông với憤)

2: bất phẫn nhi (khẩu ngữ): Không chịu thua, không chịu, không phục, bất bình, còn ấm ức. (Trd)

 uất

1 : (Cỏ cây) tươi tốt, sum sê, um tùm, rậm rạp. ( có trích dẫn= Trd)

2: (văn) Dày đặc (mây, hơi nước). (Trd)

3: Uất kết, ứ đọng, chứa chất, tích tụ, dồn nén, u uất, sầu muộn. (Trd). Thí dụ:

–         Ưu uất: U uất (u buồn, âu sầu, sầu muộn).

–         Uất phẫn: Buồn bực, tức tối (phẫn uất)

–         Uất ấp: Buồn bã (buồn rầu, phiền muộn, âu sầu)

–         Uất đào: Bồn chồn (bứt rứt)

4: (văn) Ẩn giấu, giấu kín. (Trd)

5: (văn) Oán hận. (Trd)

6: (văn) Tắc tiếng. (Trd)

7: (văn) Mùi hôi của cỏ cây. (Trd)

8: Quả mận (nói trong sách cố). (Trd)

9: Uất kim hương (thực vật): Uất kim hương, hoa vành khăn (tiếng Anh: common garden tuliplate tuliptulip; tên khoa học: Tulipa gesneriana)

Ghi chú:

–         Trong Đại Từ Điển có nhiều trích dẫn (Trd) nhưng xin tỉnh lược ở đây.

–         “(văn)”: văn ngôn. (nghĩa dùng trong viết văn, sách vở)

 uấn

1: (văn) Giận, hờn, bực tức. Trích dẫn 1: tỉnh lược ở đây. Trích dẫn 2: Nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ? Người ta không hiểu mình mà mình không giận, như thế chẳng cũng là quân tử hay sao? (Học Nhi – Luận Ngữ). Thí dụ: diện hữu uấn sắc: Mặt có vẻ giận.

3. Giải nghĩa của Sorai

Trích dẫn trong giải nghĩa chữ “uấn” của Đại Từ Điển Hán- Việt đúng là phần người viết đọc sáng nay. Để thấy việc khó khăn của phiên âm Hán-Việt xin ghi lại dưới đây phiên âm của Nguyễn Hiến Lê trong quyển Khổng Tử & Luận Ngữ (nxb Văn Học):nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?”(Dịch nghĩa: Nhưng nếu không ai biết tới mình mà mình không hờn giận thì chẳng cũng quân tử ư?”)

Phiên âm của Lý Minh Tuấn trong Tứ Thư Bình Giải (nxb Tôn Giáo, 2010) cũng là “uẩn” không phải “uấn”: “Nhân bất tri, nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ?” (Dịch nghĩa: Người ta không biết đến mình, mà mình không giận hờn, chẳng phải là bậc quân tử đó sao?”)

Hãy xem Sorai giải thích nghĩa của “uấn như thế nào?

Uấn” là có sự phật uất trong lòng. Tôi cho rằng “uấn” và “uất” chỉ thay đổi có 1 âm (âm tiếng Nhật của uấn và uất lần lượt là u-n và u-tsu, nghĩa là chỉ khác nhau n và tsu) và chắc chắn không thể phiên nghĩa là nộ (giận).”

Người viết nghĩ rằng ý Sorai cho rằng “uấn” ở đây gần với “uất” hơn là “phẫn” nghĩa là “buồn nhiều hơn giận”. Giải thích này suy diễn từ tính cách của người quân tử hơn là nghĩa của chữ. Hơn nữa, nghĩa của thời Khổng tử đã chắc gì giống như hiện tại. Đây cũng là một trong những điều nên cẩn thận khi đọc sách cổ điển của thánh hiền thời xưa.

Nguyễn Sơn Hùng, Ngày 21/7/2025

Trở về trang chủ
Xem thêm cùng tác giả: Những bài viết và dịch của Nguyễn Sơn Hùng

Tài liệu tham khảo

1)    Từ Điển Hán Nôm

https://hvdic.thivien.net/hv

2)    Thiều Chửu (1942): Hán Việt Tự Điển

http://vietnamtudien.org/thieuchuu/

3)    Đào Duy Anh (1931): Hán Việt Tự Điển

4)    Trần Văn Chánh (2022): Đại Tự Điển Hán-Việt ~ Hán ngữ cổ đại và hiện đại~, nhà xuất bản Hồng Đức.

(bài đăng trên Di63n Đan Khai Phóng ngày 30/7/2025

    30 thg 7, 2025

    TIN BUỒN VÀ PHÂN ƯU (CGS.K.10 Nguyễn Thị Phượng Từ Trần )

     

    Bạn Nguyễn thị Phượng
    Nguyên Gv trường PT Nguyễn Du ,
    Gs k10 Sư Pham Sài Gòn ,
    Vợ của bạn Tạ Trung Hiếu k9 Spsg
    vừa từ trần Thọ 74 tuổi

    Xin chia buồn cùng gia quyến bạn Hiếu và nguyện cầu bạn Phượng tiêu diêu miền cực lạc

    (FB.Nguyễn Như Quang,SPSG )

    29 thg 7, 2025

    Sân chơi thời cấp một. Đoạn hai - GhimHO ( SPSG K.13 )


    Đoạn hai

    Bước vào trường nhà nước.

    Lúc ấy trường học còn thiếu thốn nên năm học đầu tiên là đình Phú Hữu đối diện rạp Văn Cầm, nơi quen thuộc của thời thơ ấu. Hầu như ngày nào cũng xem phim bởi vì coi không tốn tiền. Mới hơi lớn, biết chút đỉnh, đã là khán giã trường kỳ của rạp Văn Cầm. Ông anh đi đâu cũng phải mang theo cái rờ mọt là tôi và tôi lớn lên chút phải giữ đứa kế tiếp, cứ thế mà luân lưu. Còn nhớ bạn của anh Sa là anh Thạch nghẹo cổ vì ảnh chuyên vẽ bảng quảng cáo rạp hát, lúc vẽ phải nghiêng cái đầu, nghiêng mãi nên quẹo cổ. Mỗi lần anh dẩn lên lầu chổ vẽ quảng cáo là tôi tha hồ ngắm ảnh những nhân vật nổi tiếng, tôi rất ái mộ Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm của Nhật và thương ông ấy lắm vì cứ nghĩ là ông ta mù thật, nhớ là shin ta rô cát su, tên Nhật chả biết viết ra sao. Rạp Cẩm Vân thì chuyên về Ấn Độ, ái mộ ông Ngọc Hoàng tuyệt đẹp.

    Trở về năm học lớp 5 tức là lớp một bây giờ, đình Phú Hữu có ông cọp to nổi trên vách ngoài cổng. Mỗi lần ẳm em đi ngang là cho nó ngồi chơi trên đầu ông cọp. Đình có gian phòng to chứa đầy gươm giáo thời xưa với tượng thần thánh. Cũng có sân khấu to và ghế thật nhiều cho khán giã xem có lúc bán vé, có lúc miễn phí.
    Nhớ lúc nghệ sĩ Hữu Phước đến hát dắt theo bé Hương Lan, ai cũng chen lấn để xem nghệ sĩ. Chú Hữu Phước vui vẻ chào mọi người nhưng bé Hương Lan tỏ ra khó chịu nhăn nhó khi bọn tôi cứ nhao nhao ào tới.

    Ngày được lên lớp hai tại trường Võ Tánh, lúc đó là lớp bốn, ngày đầu tiên tôi cũng phấn khởi ôm cặp ra đi. Đứng trước cổng trường thật sững sờ vì không phải cái trường là một lớp như tôi tưởng. Với trí não đơn sơ của đứa trẻ thời ấy, trường là cái phòng có ông thầy và học trò. Ôm cặp lang thang chẳng biết đâu mà lần, tôi vào đại một lớp ngồi chờ. Nghe thầy đọc tên hết cả lớp, không có mình. Cũng biết giơ tay khi thầy hỏi ai chưa có tên. Thầy bảo lên văn phòng Ban Giám hiệu hỏi. Lại ôm cặp ra chẳng biết văn phòng là cái gì, lại lang thang đến rạp Văn Cầm xem phim. Cứ như thế tôi ôm cặp đi đến ngày thứ ba, từ trường vào rạp hát, hết buổi sáng thì về. May mắn sao, ngày cuối thấy mấy đứa quen trong lớp, tụi nó gọi vào. Thế là ổn.

    Sân chơi lúc ấy biến chuyển từ rạp hát ra chợ Phú Nhuận đến Cầu Kiệu. Ra chợ Phú Nhuận lượm thun bán, đến trưa lượm rau củ quả bạn hàng bỏ lại. Nhà lồng thịt cũng thường đầy những thịt vụn còn sót dư sức cho bọn tôi lượm nấu ăn. Nhà lồng rau gần chợ cá là nơi cả bọn thường leo lên để phóng qua lại trên các sạp, có lúc cũng té nhưng chẳng ăn thua gì.
    Thường bọn tôi đi lượm đồ trong chợ về chơi trò nấu ăn gần trại cưa bà Năm ở ngã ba. Mỗi lần có cây đổ về chất trước sân trại là tụi tôi leo lên gở mủ cây để dành nhóm lữa. Ngủ trên đống cây cũng rất sướng, có những chổ trống chui vào chẳng ai thấy. Nấu ăn là trò chơi nhưng bọn tôi ăn thật và lại khoan khoái lắm. Lúc ấy cứ nghĩ…tại sao người lớn lại khổ sở đi làm kiếm ăn nhỉ. Với tôi kiếm tiền lại quá dễ, tự nhủ mai mốt nếu làm không được, đợi trưa ra chợ lượm đồ về nấu ăn cũng đủ.
    Lúc ấy thấy đời quá sướng, chỉ cần lượm dây thun bán cho mấy bà bán trong chợ, lượm vỏ bưởi, vỏ quýt bán cho tiệm thuốc bắc nhà ông Thanh xóm dưới, xuống sông cầu Kiệu mé cầu tiêu sông gần nhà vớt cá bán. Lúc đầu xin giấy của bạn bè bỏ ra xếp chữ M,N, hình con chó, quả nem…trãi chổ trống bán sau giờ học. Khi thì ngâm hột é, đười ươi cùng bạn Lợi bán. Cũng có lúc bị bọn côn đồ phá, bỏ gạch vào hủ sương sa đang bán. Thế là phải vớt cục gạch ra rồi thản nhiên bán tiếp.
    Có lúc vớt cá làm trôi mất cái nón, về nhà Vú hài tội đánh. Phải giả bộ xỉu, vú không đánh nữa, cho uống nước đường tỉnh lại.

    Lớn chút phải ẳm em, không được long nhong một mình nữa. Thế là cùng bạn Lợi, bạn thân thiết nhất trong xóm nhưng nó không được đi học, đi bán vé số khô bò và ẳm em theo. Thật ra bán hết tấm vé số khô bò là có dư một số đồ chơi ngon lành, không phải tốn tiền mua.
    Thời gian bán vé số là có dư tiền lại không bị đòn vì vẫn giữ em. Chỉ tội đứa em còn nhỏ, đi bộ mỏi chân nó không thèm đi, đòi ẳm. Không ẳm nổi bỏ đi, nó lăn ra đất nằm vạ. Mình và bạn Lợi phải khiêng nó hoặc chạy cho nó chạy theo. Những lúc mẹ bảo dẫn em đi xem phim thì được cho tiền mua hai vé. Nếu biết khôn ẳm nó lên, chỉ phải mua một vé, còn dư tiền ăn. Hoặc đứng xớ rớ chỗ phòng vé, chờ người lớn đi một mình năn nỉ… Cô cô, chú chú dẩn con vô là được vào miễn phí.
    Nhỏ em gái mình gởi nó vào trước thì được nhưng khi dắt thằng em, nó không vào kiểu xin xỏ. Nó cứ nói….Vú cho tiền mà. Ẳm nó để mua một vé nó cũng không chịu …nhưng nó rất hiền thường bị tụi côn đồ bắt nạt. Nó không dám đi cầu tiêu sông một mình. Hỏi thì nó bảo…Tụi nó nói em là con bùi…vì nơi đó gần xóm lò bún, nhiều du côn nên cứ phải dẩn nó đi.
    Mình không hung dữ nhưng chẳng sợ ai cả, phần vì tự tin có nhỏ bạn dữ nhất xóm. Nhỏ Lợi dữ với mọi người nhưng nó lại thương và lo cho mình lắm. Nó dạy đủ thứ từ ngoài đời đến chuyện riêng tư. Có lúc bán vé số, đếm thấy thiếu vé, nghi một ông khách ăn cắp của mình. Đếm lại nữa, thấy đủ. Nó dạy mình không được nghi ngờ khi chưa thấy. Vẫn nhớ nó nói…Một nghi là mười ngờ. Một ngờ là mười tội. Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu…tối đó về nhà mình sợ lắm. Phải sám hối và nhớ hoài.

    Lớn một chút, muốn xem phim mà không có tiền thì phải chờ xả giàn. Lúc ấy thường chiếu suất, chỉ bán vé đến hơn nửa phim là hết bán, xả giàn nên mình xin vô được. Chỉ là phải đứng cuối, ai có vé mới được người soát vé kiểm tra cho vào. Thường suất tối là xả giàn sớm. Lúc chưa vào được thì xem qua khe cửa.
    Thời gian bán vé số là lê la nhiều nhất. Anh Sa mua cho hai anh em đi bán, đứa này đi học thì đứa kia bán, cứ thế mà thay phiên. Có tiền nhiều là sân chơi mở rộng, địa bàn lang thang là Lăng Ông Bà Chiểu, Bến Bạch Đằng còn gọi là Bến Tàu vì nó có tàu bè qua lại, có một sân chơi với một cầu tuột và xích đu. Mê nhất là khô mực của mấy xe đẩy vòng quanh bến. Có lúc cũng được ba mẹ dẩn đi ngồi trên những tấm đệm con bằng lát sát bờ sông, được ăn khô mực và uống nước ngọt. Đó là những giây phút thần tiên và hiếm hoi khi ba tỉnh táo. Sau này hầu như ông say triền miên không còn tỉnh nữa.
    Những lúc đi bán về trưa nắng mỏi chân, khát nước thì uống nước phông tên có nhiều hai bên đường. Chơi trò …cặp kè chấm muối mè ngồi xuống…vừa đi vừa nói. Ngồi xuống đỡ mỏi lại đứng lên đi tiếp, vừa chơi vừa đi cho đở mệt, không ngán đường xa.
    Cũng có lúc được anh Sa lấy xe đạp mini chở đi xem đại nhạc hội ở rạp Cẩm Vân, hội chợ ở Tao Đàn. Ngày đầu tiên biết Tao Đàn là gì. Nó rộng mênh mông với người ta, hàng quán, trò chơi như thảy vòng vào cổ chai, bắn sung, phóng dao…
    Hai anh em không tiền chỉ đi xem. Mình vẫn mê nhất là con thỏ trắng bị chụp trong cái rổ, chung quanh là những ô cửa có số. Thiên hạ mua số, mở lồng ra nó chui vào ô nào là người đó trúng. Nhìn thỏ mà tội nghiệp.
    Đến chổ có chú hề đứng dưới gốc cây to. Chú cầm những quả banh tung lên và biến mất. Lát sau lại lấy từ trong túi ra. Chưa biết ảo thuật là gì, mình cứ nhìn hoài vào bóng cây bên trên, nghĩ thầm chắc có người núp trên đó chụp bóng giùm chú. Sau này anh Sa bảo là ảo thuật, mua sách về tập làm. Mình cũng tập được vài trò như đứt ngón tay cái, hô cho đồng xu biến mất khi chà vào tay…biểu diễn cho tụi bạn cũng thấy đã đã. Sau này vẫn còn nhớ để dạy học trò.
    Bên cạnh những trò chơi tử tế, kiếm tiền cũng có những trò mất dạy…bấm chuông cửa nhà giàu rồi chạy, chọc chó sủa, leo rào vào vườn người ta hái trứng cá bị chó rượt. Lúc ấy qua khỏi cầu Bạc Má Hồng , bây giờ là Công Lý, chạy về phía Tân Sơn Nhất là những biệt thự, nhà giàu kín cổng cao tường có đầy cây trứng cá. Nhà nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng cũng ở đó. Đi xin hình ca sĩ cũng là trò chơi mà bọn trẻ rất mê. Tôi cũng xin được hình ca sĩ Phương Dung và nghệ sĩ Thẫm Thúy Hằng. Nhà cô Phương Dung nhỏ nên vào dễ và cô rất thân thiện, hỏi tên từng đứa và ký tên để tặng ảnh. Nhà cô Thẫm Thúy Hằng thì to, có cổng rào, có chó và tụi con nít trong nhà ra chửi khi chúng tôi bấm chuông. Nhưng tôi vẫn xin được hình nhờ chiếc xe hơi của khách đến. Thế là bọn tôi cứ đàng hoàng hộ tống xe vào cổng đế xin hình dù là có bị chì chiết đôi chút vẫn có hình và hình ảnh đẹp như mơ của cô Thẫm Thúy Hằng vẫn nằm trong trí tôi cho đến hôm nay...

    GHIM HO.

    Murakami giữ niềm kinh ngạc mãi mãi thuần khiết

     Vanvn- Trong Nghề viết tiểu thuyết, lần đầu tiên Murakami Haruki chia sẻ một cách có hệ thống về công việc viết văn của mình.

    “Chỉ khi viết văn tôi mới có thể suy nghĩ một cách có tuần tự” – trích trong sách – Ảnh: Reuters

    “Tôi đã tiếp tục làm nhà văn chuyên nghiệp và viết tiểu thuyết hơn 35 năm. Và sự thật đó đến tận bây giờ vẫn đang làm tôi kinh ngạc. Thật sự rất kinh ngạc. Điều tôi muốn kể trong cuốn sách này chung quy là về niềm kinh ngạc đó, về ý nghĩ mạnh mẽ (có thể gọi là ý chí cũng được) muốn giữ niềm kinh ngạc đó mãi mãi thuần khiết.”- Murakami

    “Nếu ngay từ đầu tôi đã tuyên bố rằng sẽ bàn về tiểu thuyết thì có lẽ phạm vi câu chuyện trở nên quá rộng, nên tạm thời trước hết tôi sẽ nói về nghề viết tiểu thuyết. Tôi nghĩ như vậy vừa cụ thể hơn vừa dễ hình dung hơn, câu chuyện cũng dễ triển khai hơn”. Murakami Haruki đã mở đầu cuốn sách Nghề viết tiểu thuyết như thế.

    Sinh ra trong trận bóng chày

    Cuốn sách Nghề viết tiểu thuyết tập hợp nhiều bài viết đã đăng trên một tạp chí do bạn của Murakami sáng lập, thêm vào bài phát biểu trước công chúng của ông tại sự kiện giải Kawai Hayao, đặt tên theo người bạn vong niên quá cố của Murakami.

    Hoàn thành năm 2015, đây là tác phẩm tổng hợp những kinh nghiệm cá nhân của Murakami trong việc viết tiểu thuyết, đúc kết ba thập niên theo đuổi công việc viết lách.

    Sinh ra trong một gia đình có cha và mẹ đều là giáo viên nhưng Murakami thú nhận mình không có đam mê học hành. Ông chỉ thật sự dấn thân vào văn chương ở độ tuổi 30.

    Trong khi xem một trận bóng chày tại sân vận động, cảm hứng viết tiểu thuyết bất chợt đến với ông. Lúc đó Murakami đang làm chủ một quán bar và chỉ có thể viết sau giờ làm việc. Tiểu thuyết đầu tay Lắng nghe gió hát đã ra đời như thế.

    Lắng nghe gió hát đoạt một giải thưởng văn học dành cho tác giả mới. Sau đó từ tiểu thuyết này sang tiểu thuyết khác, Murakami Haruki dần khẳng định tên tuổi và vị thế của mình trong cộng đồng người hâm mộ.

    Thoạt nhìn, văn nghiệp của nhà văn Nhật Bản này có vẻ khá suôn sẻ nhưng thực tế, theo chia sẻ của Murakami, mọi chuyện không dễ dàng chút nào.

    Các tác phẩm của ông không phải lúc nào cũng được giới chuyên môn đánh giá cao. Thậm chí môi trường văn học khi ấy ngột ngạt đến nỗi ông phải bỏ ra nước ngoài sống một thời gian.

    Nhiều tiểu thuyết nổi tiếng của ông được viết trong giai đoạn ông lưu trú ở nước ngoài, bao gồm cả những tác phẩm nổi tiếng nhất.

    Khoảng hơn 10 năm nay, cứ đến mùa giải Nobel cái tên Murakami Haruki lại được nhắc đến như một ứng cử viên của giải Nobel văn học và có lẽ điều này đã gây cho ông không ít phiền toái. Nhưng Murakami đã có kinh nghiệm nhiều năm đối phó với chuyện… hụt giải thưởng.

    Ông đã dành cả một chương trong để nói về các giải thưởng văn học đối với nhà văn.

    Ở Nhật Bản có một giải thưởng văn học danh giá tên Akutagawa ra đời từ năm 1935, đặt theo tên văn sĩ Akutagawa Ryunosuke (1892-1927). Rất nhiều nhà văn nổi tiếng của Nhật Bản từng nhận giải thưởng này, bao gồm cả Oe Kenzaburo (Nobel văn học năm 1994). Tiểu thuyết Shiiku của Oe được trao giải Akutagawa năm 1958.

    Murakami thẳng thắn nhìn nhận đối với cá nhân ông, giải thưởng không tác động đến công việc sáng tác.

    Nhưng một thời gian dài, việc Murakami không được trao giải Akutagawa đã trở thành đề tài bàn tán. Thậm chí một lần đi vào nhà sách, Murakami thấy trên giá có một tác phẩm tên Sao Haruki Murakami không được giải Akutagawa.

    Murakami trích dẫn Raymond Chandler, một nhà văn ông ưa thích, mà ông đã dịch nhiều tác phẩm của Chandler sang tiếng Nhật: “Giải Nobel văn học là cái gì cơ chứ. Nó được trao cho quá nhiều nhà văn hạng hai.

    Những nhà văn chẳng khơi gợi lên được chút hứng thú đọc nào. Đa phần nếu giành được thứ đó thì sẽ phải đến Stockholm, ăn vận trong trọng và phát biểu. Giải Nobel văn học đáng để hao tâm tổn sức thế ư? Đương nhiên là không”.

    Ra khỏi huyền thoại tài năng thiên phú

    Sách “Nghề viết tiểu thuyết” của Murakami

    Nghề viết tiểu thuyết không quá tập trung vào “nghệ thuật viết tiểu thuyết” như một sổ tay văn chương hướng dẫn cách viết, mà là một tác phẩm nói chuyện nghề. Dù Murakami thảo luận rất nhiều điều căn bản để viết một tiểu thuyết.

    Có thể với tác phẩm đầu tay, viết như một sự ngẫu hứng, viết để thỏa mãn một điều gì đó, tài năng và nguồn cảm hứng đóng vai trò quan trọng.

    Nhưng để sống với việc viết tiểu thuyết như một nghề đòi hỏi nhiều yếu tố khác. Đặc biệt khi khởi sự viết những tiểu thuyết dài cần đòi hỏi thời gian và thể lực của người viết.

    Murakami xóa tan huyền thoại nhà văn phải là một con người phi thường hay chí ít là có một đời sống khác thường.

    Trái lại, họ là những con người bình thường, thậm chí có đời sống kỷ luật lặp lại nhàm chán. Ông lấy ví dụ Kafka – nhà văn vĩ đại của nhân loại. Lúc sinh thời, Kafka hằng ngày vẫn là một nhân viên mẫn cán. Công việc viết lách không làm xao lãng hay lấn át con người công sở của ông.

    Trước khi Nghề viết tiểu thuyết xuất bản, một tác phẩm phi hư cấu khá nổi tiếng của Murakami là Tôi nói gì khi nói về chạy bộ. Ông là một người chạy bộ chuyên nghiệp, một thói quen ông đã duy trì từ lúc bước vào độ tuổi 30. Ngoài 70 tuổi, hằng ngày Murakami vẫn chạy hàng chục cây số.

    Thể lực tốt cộng với tinh thần kỷ luật giúp ông vẫn viết được những tác phẩm có dung lượng khá đồ sộ. Tiểu thuyết mới nhất của Murakami Thành phố và những bức tường bất định (tên tạm dịch) với gần 700 trang sách, phát hành ở Nhật hồi năm 2023.

    HUỲNH TRỌNG KHANG

    Tuổi Trẻ

    28 thg 7, 2025

    Trang Thơ Đặng Việt Lợi ; MÓN QUÀ VUI CHO BẠN, HÀNH TRÌNH CỦA "LỆ "


    MÓN QUÀ VUI CHO BẠN

     (Thơ cóc dành cho 2 bạn Tiến +Hà )

    Sáng nay, có một cặp đôi
    “Địu” từ Quảng Ngãi, một… “gùi” yêu thương
    Là đồng môn với… “bạn đường”
    Ghé chơi làm khoảng sân vườn thêm xanh
    Sài Gòn vui, ngắm duyên lành
    Từng lời chúc phúc reo quanh chỗ ngồi
    Mong bạn và “bạn đường” vui
    Cùng san sẻ những ngọt bùi nhân gian!
    SG_180725
    ĐVL




    HÀNH TRÌNH CỦA… “LỆ”
    Lẽ thường nước mắt chảy xuôi
    Lỡ đau núm ruột, chảy lùi vào trong
    Xót xa - mắt lệ lưng tròng
    Là khi thân lạc vào vùng lãng quên
    Lệ khô - ráo hoảnh mắt nhìn
    Bởi vô ơn bám rêu trên phận người
    Còn gì đâu để chảy xuôi
    Cả khi cố lặng lẽ lùi vào trong
    Chẳng còn đủ lệ rưng rưng
    Đã không thể khóc thì… ung dung cười
    Tung hê buồn, nhặt nhạnh vui
    Đành thôi, đành chịu vậy thôi….
    - Phước phần!!!
    SG_270725
    ĐVL

    Gore Vidal: Nhà văn chua cay nhất nước Mĩ

     Vanvn- Khi thế giới tiến đến kỉ niệm 100 năm ngày sinh của tiểu thuyết gia nổi tiếng Gore Vidal, thì những dấu ấn đặc biệt trong sự nghiệp gồm các tác phẩm lớn, những lời chỉ trích cay nghiệt và những thuyết âm mưu “kì quặc” được huyền thoại hóa quanh con người ông thêm một lần nữa được nhắc nhớ lại.

    Lúc sinh thời, Gore Vidal từng chia sẻ bản thân hi vọng sẽ được nhớ đến như “người viết ra những câu văn hay nhất của thời đại mình”. Thoạt nghe nó có một chút tự phụ, và với danh tiếng là một trong những nhân vật thường đưa ra các bình luận cay nghiệt, thì tính từ đó đã gắn với ông không thể khác được.

    Vidal sinh ra với tên Eugene Luther Gore Vidal Jr tại Học viện Quân sự West Point vào ngày 3 tháng 10 năm 1925. Trong suốt văn nghiệp, ông cho ra đời 25 tiểu thuyết, 14 kịch bản phim, 8 vở kịch sân khấu và 26 tác phẩm phi hư cấu, bao gồm cả các bài luận được đánh giá là kinh điển của nước Mĩ. Ông cũng là bậc thầy của những câu nói móc mỉa mà độc giả vẫn nhớ cho đến giờ đây, một trong đó là: “Mỗi lần người bạn nào đó của tôi thành công, tôi lại chết đi một chút”.

    Tiểu thuyết gia Gore Vidal.

    Ông nội của Vidal là thượng nghị sĩ TP Gore nổi tiếng, còn cha ông, Eugene Vidal, có vai trò quan trọng dưới thời tổng thống Franklin D Roosevelt. Vidal không thân thiết với mẹ mình, Nina, và từng mô tả bà là người nghiện rượu, hay sử dụng bạo lực và sống trong tự thương hại. Sau khi li hôn với cha Vidal năm 1935, mẹ ông kết hôn với Hugh D Auchincloss, cha dượng của Jacqueline Kennedy Onassis, vợ tổng thống Kennedy.

    Năm 17 tuổi ông nhập ngũ và phục vụ với tư cách thuyền phó của một tàu tiếp tế hàng hóa quân đội. Ông gọi trải nghiệm chiến tranh này là “lạ lùng, không dễ chịu và đầy lạnh lẽo”. Tuy nhiên chính thời gian này đã là chất liệu cho cuốn tiểu thuyết Williwaw lấy chủ đề Thế chiến thứ hai và được đánh giá là hay nhất của ông, được viết ở tuổi 22. Hai năm sau đó ông cho ra mắt The City and the Pillar – cuốn sách được coi là tiểu thuyết đồng tính đầu tiên của nước Mĩ vào năm 1948. Tác phẩm bị lên án là đồi trụy, trong khi Vidal bị nhiều tờ báo liệt vào “danh sách đen”, vì thế mà ông chuyển sang viết bằng bút danh Edgar Box, Katherine Everard và Cameron Kay. Vụ việc này cũng dẫn ông đến ngành công nghiệp phim ảnh.

    Vào cuối những năm 1960, sau một lần tranh cử vào Quốc hội không thành công và xuất bản 3 tiểu thuyết gây xôn xao văn đàn, ông đã trở thành gương mặt truyền hình rất được yêu thích với phong thái bộc trực cùng những bình luận mang màu sắc châm biếm. Mối thù hằn nổi tiếng nhất của ông là với Truman Capote – tác giả của Máu lạnh, Buổi sáng ở Tiffany khi vị này tuyên bố Vidal đã bị Bobby Kennedy – Thượng nghị sĩ Hoa Kì và là em trai của tổng thống Kennedy – đuổi khỏi Nhà Trắng vì “say xỉn và tỏ ra đáng ghét”. Sau đó, Vidal đã nói với tờ báo này: “Tôi ghét Capote đến vô cùng tận, theo cách bạn ghét con vật bẩn thỉu nào đó tìm đường vào nhà vậy”.

    Những tiểu thuyết trong bộ tiểu thuyết lịch sử của Gore Vidal.

    Mặc dù tiểu thuyết của Vidal giành được sự ngưỡng mộ của rất nhiều người – đặc biệt là Julian (1964), một tiểu thuyết lịch sử sống động và được nghiên cứu tỉ mỉ về vị hoàng đế La Mã thế kỉ thứ 4 – nhưng ông lại khá khó chịu với những tác giả được các nhà phê bình ca ngợi. Năm 1996 ông đã viết một bài chỉ trích dài 10.000 từ về người chiến thắng giải thưởng Pulitzer John Updike cho The Times Literary Supplement, tuyên bố rằng tác giả của Chạy đi Rabbit “viết mà không biết mình đang nói gì”. Sau đó, ông nói với người phỏng vấn: “Tôi không chịu nổi Updike. Cứ cho là tôi ghen tị đi, nhưng tôi bán chạy hơn anh ta. Anh ta chỉ là một cậu bé trung lưu buồn tẻ cố gắng vươn đến đỉnh cao”. Và các nhà văn nam không phải là mục tiêu duy nhất, bởi khi được yêu cầu nêu tên tác giả gây nản lòng nhất trong thế giới tiếng Anh, ông trả lời rằng: “Joyce Carol Oates” – nữ văn sĩ người Mĩ nổi tiếng.

    Ông là bạn thân của những người vĩ đại, bao gồm nhà viết kịch Tennessee Williams, diễn viên huyền thoại Paul Newman và Công chúa Margaret, em gái của nữ hoàng Anh Elizabeth. Anaïs Nin – nhà văn người Mĩ gốc Pháp – mô tả Vidal là “sáng sủa và nam tính”. Ông cao hơn 1.8 mét, có vẻ ngoài điển trai của những sinh viên Ivy League và thích chăm chút mái tóc của mình. Ông có thói quen nheo mắt để tránh đeo kính vì ngại nó khiến bản thân trông hơi ngớ ngẩn.

    Ông không giấu giếm cuộc sống tình ái “đặc biệt” khi còn trẻ, bởi đã tiết lộ trong cuốn hồi kí Palimpsest rằng mình đã có hơn 1.000 lần quan hệ tính giao cả nam và nữ khi mới 25 tuổi. Một trong những “cuộc chinh phục” đáng chú ý của ông là Jack Kerouac – tác giả của tuyệt tác Trên đường – người mà ông gặp năm 1949 tại Nhà hát Metropolitan Opera. Theo đó ông đã khoe khoang một cách hờ hững trong một cuộc phỏng vấn năm 1994 rằng: “Như mọi người đều biết, tôi đã quan hệ với Kerouac”.

    Vidal sau đó sống với người bạn đồng hành kiêm biên tập viên quảng cáo Howard Austen trong 5 thập kỉ dù khẳng định rằng “tình yêu không phải là điều tôi quá bận tâm”. Tuy vậy vào quãng cuối đời, ông để lại di chúc muốn được chôn cất tại Nghĩa trang Rock Creek bên cạnh Austen.

    Nhưng Vidal còn hơn cả một ngôi sao truyền hình và một kẻ chuyên gây hấn trong văn đàn. Ông xứng đáng được tôn trọng vì tiểu thuyết lịch sử của mình. Cảm nhận sâu sắc của Vidal về quá khứ của nước Mĩ đã được thể hiện trong các tiểu thuyết Washington, DC (1967), Burr (1973), 1876 (1976), Lincoln (1984), Empire (1987), Hollywood (1990) và The Golden Age (2000) thuộc bộ Narratives of Empire, qua đó cung cấp một góc nhìn mạch lạc về sự suy tàn của quốc gia này.

    Với tất cả sự chua chát mà ông dành cho người khác, Vidal cũng đôi khi hướng cái nhìn lạnh lùng về bản thân mình. Ông từng nói rằng: “Tôi là những gì mà mình thể hiện. Không có sự mềm mỏng hay ấm áp, đáng yêu nào ở bên trong cả. Bên dưới vẻ ngoài lạnh lùng của tôi, một khi phá vỡ lớp băng, bạn chỉ đầm mình trong nước lạnh thôi”. Sau khi dành thời gian với Vidal ở Ý, nhà văn Erica Jong đã mô tả Vidal là “tiếng nói cho sự tỉnh táo trong một thế giới điên rồ” và vẫn thấy chán khi phải đối mặt với “người đàn ông lạnh lùng và buồn bã nhất mà tôi từng gặp”.

    Trước khi qua đời, do biến chứng của bệnh viêm phổi, ông đã để lại khối tài sản trị giá 37 triệu USD và toàn bộ di sản văn học cho Đại học Harvard, một sự lựa chọn mà hai người họ hàng xa không thể đảo ngược tại tòa. Nói về điều này, Vidal chia sẻ về sự gắn bó với Henry James – nhà văn mà ông mô tả là “bậc thầy của tiểu thuyết” – người cũng có bộ sưu tập được lưu giữ tại Havard. Mặc dù tiểu thuyết của Vidal không bao giờ có thể sánh được với sự tao nhã hay phức tạp của James, nhưng ông tin chắc cả hai đều cùng chia sẻ tình yêu với sự mơ hồ và cách nhìn mỉa mai.

    Mặc dù mới 13 năm từ khi Vidal rời khỏi nơi ông gọi là “chiếc thuyền của những kẻ ngốc”, nhưng không thể phủ nhận ông là học giả uyên bác từ một thời đại đã mất, là một nhà văn của nước Mĩ suy tàn và là một nhà bình luận chính trị sâu sắc, chua cay đang mất dần đi trong chính thời đại truyền thông xã hội ngay bây giờ đây.

    NGÔ THUẬN PHÁT dịch

    The Independent/ Văn Nghệ Quân Đội

    27 thg 7, 2025

    Mênh Mông - Nguyễn Cang

     


    MÊNH MÔNG

    Dòng đời thế kỷ điêu linh
    Trăm năm một cõi cho mình biệt ly
    Trần ai mấy nẻo đi về
    Đầu nguồn thác đổ chân đê cạn dòng
    Mịt mù khói tỏa trời đông
    Hải âu vỗ cánh bay trong chiều tà
    Thả hồn theo hạt mưa sa
    Đêm khuya nằm mộng thiết tha tình nồng
    Bỗng nghe tiếng vạc bên sông
    Giật mình tỉnh giấc tuyết đong mái nhà
    Còn đây xao xác tiếng gà
    Hoàng hôn buông xuống Trường Sa gục đầu
    Mộng về đâu thực về đâu
    Chiều nghiêng nắng đổ giọt sầu nào vơi?!!

    Nguyễn Cang (Jul. 13, 2025)

    Posted by 304Denat 8:59 PM




    ÐẶNG THẾ PHONG – TÀI HOA BẠC MỆNH (1918-1942)

     

    Trăm năm trong cõi người ta
    Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
    (Nguyễn Du)

    Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc nước ta, nhạc sĩ Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.
    Ðặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiếu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông cơ sở). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!
    Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.
    Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da – Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà Đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!
    Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong “kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).
    Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài: Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi! Qua Ðặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa). Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi. Với âm nhạc, người chuyên sử dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thể điệu nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ! Nói đến điều này, điển hình trong làng nhạc nước nhà, chúng ta nhìn vào ông nhạc sĩ tiền bối Th.O, ông này là một trong số ít người đi tiên phong trong việc sáng tác tân nhạc. Từ đó cho đến sau này, suốt hơn 40 năm, ông có một tập sáng tác khá đồ sộ, trên dưới 500 bài nhưng cho đến ngày hôm nay không có lấy một bài nhạc nào đi vào lòng người nếu ta không muốn nói là sáng tác của ông đã hoàn toàn bị chìm trong quên lãng! Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.
    Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp:
    Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có đuyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế Phong, khi biết mối tình của cặp Phong – Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!
    Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:
    – Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn !
    Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu, thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.
    Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt ! Ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:

    Đêm nay thu sang cùng heo may
    Đêm nay sương lam mờ chân mây
    Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
    Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
    .. Lướt theo chiều gió
    Một con thuyền theo trăng trong
    Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
    Biết đâu bờ bến?
    Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
    Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?…

    Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô . Khi hát xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: “Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!”

    Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ : “Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự, một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi..” Đến lúc ấy chị Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.
    Chính vì thế mà có một ngườl ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình ! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công !
    Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
    Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm, không hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong :
    – Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm? Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm? Anh đi nhà thương khám và thuốc men , cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai !
    Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương ông lấy cho Đặng Thế Phong. Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình. Trong các cuộc ao đẹp của văn nghệ sĩ nước nhà, có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc,thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng !
    Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội. Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ tối đa mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.
    Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi. Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng.
    Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì để bám víu!
    Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!
    Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu. Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong – Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng ? Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về.
    Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.
    Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu. Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.
    Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình cho, mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.
    Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di cư vào Nam hiện ở Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tự Do, thấy quảng cáo trước cuốn Nhạc Sĩ Danh Tiếng Hiện Đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa ngay. Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong trở vào gửi trả lại tôi. Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về chuyện tình tươi đẹp như bài thơ, trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết. Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe. Bà cười và nói:
    – Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tính bạn bè, nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ !
    Sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :
    – Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.
    Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thể trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này. Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá. Nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !
    Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.

    Nhạc sĩ Lê Hoàng Long,

    Trích từ Vietnet