Từ cổ chí kim Trung Hoa đã được
coi là Thần Châu – là vùng đất của Thần Phật, có lịch sử lâu dài và nền
văn hóa nghệ thuật sáng chói. Trong đó có 8 môn nghệ thuật của Trung
Hoa, cũng chính là 8 quốc túy của quốc gia này.
Thêu
thùa là thuật ngữ cho các loại mẫu trang trí khác nhau được dùng chỉ
xuyên qua xuyên lại trên mặt vải Thêu là một nghệ thuật dân gian truyền
thống của Trung Quốc với ít nhất 2000 năm đến 3000 năm lịch sử. Vải thêu
chủ yếu là lụa tơ tằm. Công nghê thêu thùa của Trung Quốc đã đạt đến
một trình độ cực kì cao cấp trong triều đại Tần Hán. Đây là một trong
những mặt hàng trong lịch sử của “Con đường tơ lụa”.
Cắt giấy
là nghệ thuật thủ công truyền thống dân gian của Trung Quốc, đã được
lưu truyền ở quốc gia này trong hơn 1500 năm.Trung Quốc đã phát minh ra
sản xuất giấy trong triều đại Tây Hán và Đông Hán. Từ việc phát minh sản
xuất giấy, những người nghệ sĩ tài hoa đã sáng tạo ra việc cắt giấy
nghệ thuật. Cắt giấy là một tác phẩm nghệ thuật dân gian rất phổ biến,
được người dân yêu mến từ hàng ngàn năm nay vơi đặc điểm nghệ thuật dân
gian mạnh mẽ. Nó còn là một báu vật trong kho tang nghệ thuật của đất
nước Trung Hoa. Nghệ thuật nghệ thuật cắt giấy – một kho tàng nghệ thuật
dân gian Trung Quốc, vẫn luôn tỏa sáng rực rỡ.
Cờ vây
là một trò chơi trí tuệ cổ đại, được phát minh bởi Nghiêu Đế (một trong
“Ngũ Đế”), đến nay nó đã có hơn 4000 năm lịch sử. Cờ
vây đầu tiên được gọi là “dịch” hay “kỳ”. Sau đó theo đặc điểm của việc
dịch chuyển tương tác giữa hai bên cờ đen và trắng mà gọi thành cờ vây.
Cờ vây đã trở thành một trong tứ nghệ của Trung Hoa: Cầm, Kỳ, Thi, Họa
(Kỳ chính chỉ cờ vây).
Trong
Nam Bắc triều, bàn cờ đã được định hình với lưới dòng kẻ có kích cỡ
19×19, nó có một hệ thống 9 mức độ bình phẩm để đánh giá trình độ của
người chơi. Dần dần cờ vây trở thành một môn học bắt buộc để tu luyện
trí thức của giai cấp trí thức Trung Quốc. Cờ
vây sau đó đã được truyền đến Nhật Bản trong thế kỷ thứ 7 (Trung Quốc
nhà Đường) và nhanh chóng trở nên phổ biến ở Nhật Bản. Nó được mọi người
gọi với một cái tên rất sinh động “thế giới đen trắng”.
Sứ là
một biểu tượng của nền văn minh Trung Quốc cổ đại và cũng là một quốc
bảo của văn hóa nghệ thuật của dân tộc Trung Quốc. Ngoài ra sứ được
Trung Quốc phát minh là một đóng góp to lớn của quốc gia Trung Quốc cho
nền văn minh thế giới. Trung Quốc được gọi là “đất nước của sứ”. Người
khắp nơi trên thế giới đều rất yêu thích với những sản phẩm chế tạo tinh
xảo tuyệt diệu này. Công nghệ sản xuất sứ của Trung Quốc đã lan rộng ra
các nước trên thế giới và đã có những đóng góp quan trọng trong việc
trao đổi văn hóa giữa Trung Quốc và các nước khác. Trung Quốc giành được
danh hiệu “thế giới sứ quốc”.
Trung
Quốc là quốc gia sớm nhất trên thế giới khám phá và sử dụng cây trà,
được thế giới công nhận là cha đẻ của văn hóa trà và lá trà trên thế
giới. Trà là thức uống dân tộc của quốc gia Trung Hoa. Uống trà, trồng trà và pha trà đều có nguồn gốc từ Trung Hoa.
Chuyên
khảo dược đầu tiên của Trung Quốc “Thần Nông bản thảo kinh” ghi lại:
“Thần Nông nghiên cứu và nếm thử một trăm loại thảo mộc, có đến 72 loại
có độc, chỉ khi nghiên cứu đến trà mới dừng lại.” Trong
thời đại Thần Nông cách đây 7.000 năm, người Trung Quốc đã khám phá ra
trà và biết rằng trà có tác dụng chữa bệnh cực kì hiệu quả. Do
đó, tổ tiên Thần Nông của quốc gia Trung Quốc là người đầu tiên khởi
xướng trà ở Trung Quốc. Thần Nông không chỉ là người khởi đầu của trà ở
Trung Quốc, mà còn là người khởi đầu văn hoá trà trên thế giới. Trà là
thức uống tự nhiên và lành mạnh nhất, một thức uống giàu văn hóa nhất.
Ngoài ra không thể nói đến nghệ thuật pha trà và thưởng trà của người
Trung Hoà thời xưa.
Kinh
kịch, là một trong 5 thể loại ca kịch đầu tiên của Trung Quốc, được
cường điệu hoá từ điệu Tây Bì cùng với làn điệu Nhị Hoàng, kết hợp với
tiết tấu và sự cộng hưởng giữa các loại nhạc cụ như trống, hồ cầm (đàn
nhị) mà thành. Kinh kịch được coi là một trong những quốc tuý của Trung
Hoa. Trong năm mươi lăm năm của
triều đại nhà Thanh (từ 1790), nguyên tại phía nam xuất hiện bốn người
ứng với 4 loại vai đó là: Tam Kinh, Tứ Hỉ, Xuân Đài, Hoà Xuân. Bốn người
họ đến từ Hồ Bắc, được hấp thụ các giai điệu và các phương pháp biểu
diễn mang đậm màu sắc dân gian địa phương và đồng thời có sự kết hợp của
côn khúc, tần xoang (vừa hát vừa đánh hai miếng gỗ vào nhau tạo nên âm
thanh). Dần dần hình thành một loại hình kinh kịch như hiện nay.
Sau khi
được hình thành nó được cung đình triều đại nhà Thanh vô cùng yêu thích,
từ đó kinh kịch được phát triển và phổ biến rộng rãi hơn. Vũ
đài kinh kịch là sự tổng hoà của văn học, biểu diễn, âm nhạc, thanh
nhạc, chiêng trống, hoá trang, bộ mặt từng nhân vật. Thông qua việc thực
hành kỹ thuật biểu diễn của các nghệ sĩ lâu năm, hình thành một bộ quy
định chế ước, cùng bổ sung cho nhau làm thành một quy phạm hoá cho
chương trỉnh biểu diễn.
Võ thuật
Trung Quốc hay còn gọi là Công Phu, tên tiếng anh là Kungfu, là một môn
võ truyền thống của Trung Quốc, nó có lịch sử lâu đời, sớm nhất có thể
tìm ngược lại về triều đại nhà Chu. Công Phu có nền tảng rộng lớn, đây
là một di sản quý giá nôi bật của người dân Trung Quốc.
Công phu
thực chất không hẳn chỉ mỗi việc luyện võ của con người, mà nó là bất
kỳ một loại tài năng ở lĩnh vực nào. Công phu thực chất là một sự rèn
luyện, là một tiến trình rèn luyện lâu dài của con người. Rèn luyện từ
cơ thể cho đến ý chí kiên định tập luyện hàng ngày. Công phu là kết quả
của một chuỗi thời gian lâu dài kiên trì bền bỉ mà tạo thành. Có 8 biến
hoá trong thân thể đó là: tay, mắt, thân, pháp, bộ, tinh thần, khí lực,
công. Các phản ứng đặc biệt này trong võ thuật Trung Hoa tạo thành một
loại hình thức văn hoá nghệ thuật với sự phát triển lịch sử lâu dài của
triết học, y học, mỹ học. Công phu tạo thành một phong cách luyện công
pháp độc đáo và một hình thức rèn luyện thân thể.
Đất nước duy nhất sử dụng văn bản cổ đại như nghệ thuật là Trung Quốc, nghệ thuật này được gọi là thư pháp. Văn tự bắt đầu xuất hiện trong thời đại Hiên Viên hoàng đế cách đây khoảng 5.000 năm. Truyền
thuyết kể rằng Hiên Viên hoàng đế đã ra lệnh cho đại thần Thương Hiệt
sáng tạo ra chữ và Thương Hiệt đã phát minh sáng tạo ra được văn tự. Thương
Hiệt là sử quan của hoàng đế, là người phát minh ra hán tự, ông được
các thế hệ sau này coi là tổ tiên của văn tự Trung Hoa. Hán tự Trung Hoa
đã có những thành tựu bất tử cho sự sinh sản và phát triển của đất nước
Trung Quốc. Khi hán tự được ghi lại
bằng những bức đồ bức hoạ bằng chữ tượng hình, trải qua hàng nghìn năm
phát triển, trở thành chữ viết ngày nay của Trung Quốc.
Từ việc
phát minh chữ viết của tổ tiên, dần dần trở thành thư pháp, thư pháp là
sự tổng hợp của chữ viết và nghệ thuật. Bắt đầu từ chữ giáp cốt (chữ
khắc trên mai rùa) của triều nhà Thương, kim văn của thời nhà Chu, văn
thạch khắc, đến chữ triện của nhà Tần, chữ lệ của thời Hán, từ Đông Phổ
đến triều Đường có khải thư, hành thư, thảo thư. Nghệ thuật thư pháp
Trung Quốc đạt đến mức độ trườn thành và phồn vinh. Có 5 loại thư pháp
cơ bản của thư pháp Trung Quốc đó là: lệ thư, triện thư, khải thư, hành
thư và thảo thư.
Theo Soundofhope.org
Uyển Vân biên dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét