" Tảo Hàn Giang Thượng Hữu Hoài " của Mạnh Hạo Nhiên còn có một tựa nữa là " Tảo Hàn Hữu Hoài ". Bài thơ " Ngũ Ngôn Luật Thi " nầy được Mạnh Hạo Nhiên sử dụng những từ rất độc đáo và rất đặc biệt. Ta hãy tìm hiểu lại các từ nầy xem sao....
早寒江上有懷 Tảo Hàn Giang Thượng Hữu Hoài
木落雁南渡, Mộc lạc nhạn nam độ,
北風江上寒。 Bắc phong giang thượng hàn.
我家襄水曲, Ngã gia Tương thuỷ khúc,
遙隔楚雲 端。 Dao cách Sở vân đoan
鄉淚客中盡 , Hương lệ khách trung tận,
孤帆天際看。 Cô phàm thiên tế khan.
迷津欲有問, Mê tân dục hữu vấn,
平海夕漫漫。 Bình hải tịch man man.
孟浩然 Mạnh Hạo Nhiên
Chú Thích :
Cảm xúc trên sông khi trời lạnh sớm. 1. Mộc Lạc : là CÂY RỤNG, ta biết là Cây không thể rụng được, vì trong tiếng Hoa và tiếng Việt ta không có Thể Thụ Động ( Passive voice ) , nên ở đây phải hiểu là : Cây bị rụng hết lá vì trời đã cuối thu. Ở đây chỉ những loại cây thuộc " Lạc diệp kiều mộc " 落葉喬木, là loại cây có thân cao to và lá sẽ vàng rụng vào mùa thu.
2. Nhạn Nam Độ : Sao không nói là Nhạn Nam PHI mà nói là Nhạn Nam ĐỘ.渡, Thì ra ĐỘ ở đây có ba chấm thủy chỉ đi ngang qua sông hồ ao biển. Vì tác giả đang ở trên sông, nên nhìn thấy chim Nhạn bay ngang qua sông đi về hướng Nam.
3. Giang Thượng : là Trên sông, xác định lại một lần nữa là Tác giả đang đi thuyền trên sông.
4. Tương Thủy : 襄水 Tương Thủy nầy khác với Tương Giang 湘江 mà ta thường hay nhắc tới là : Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương giang vĩ... Tương Thủy nầy chảy ngang qua phía Nam thành Tương Dương nên nay được đổi tên thành Nam Cừ. Nhà cũa Mạnh Hạo Nhiên ở Lộc Hành Sơn, mao lư của ông nằm ở chỗ uốn khúc ( voi hay vịnh ) của dòng Tương thủy. Nhập giang tùy KHÚC là chữ KHÚC nầy đây.
5. Vân Đoan : Đoan là ngay ngắn( Đoan chính ), là đầu, là đầu mối ( chấp kỳ lưỡng đoan : Giữ lấy 2 đầu ), là Bưng, là Lý do... Ở đây VÂN ĐOAN là Trong đám mây, ngay cái đám mây đó đó...
6. Hương Lệ : Không phải là giọt lệ của quê hương , mà là giọt lệ rơi vì thương nhớ quê hương.
7. Thiên Tế : là đường chân trời ( Horizon ). Ta có thể hiểu là Góc trời, Bên trời gì cũng được.
8. Mê Tân : Tân là Bờ, là Bến. Mê Tân ta quen gọi là Bến Mê ( Bọt trong bể khổ bèo đầu Bến Mê ). Nhưng ở đây chỉ Bến bờ mờ mịt không biết nơi đâu.
9. Bình Hải : là Mặt biển bằng phẳng ?. À, thì ra ngày xưa phương tiên giao thông thô sơ, trên chiếc thuyền nhỏ nhìn ra sông lớn, cũng chỉ thấy trời nước mênh mông, nên gọi là Bình Hải, chớ không có biển gì ở đây cả !
10. Tịch : là Đêm ( Thất tịch, Trừ tịch ). là Buổi chiều, là Hoàng hôn : Tịch Dương là Nắng Chiều. TỊCH MANG MANG là Chiều xuống mênh mông, là Hoàng hôn phủ đầy bầu trời.
Ta thấy Mạnh Hạo Nhiên toàn dùng những từ rất lắt léo, rất đặc biệt và sử dụng cả những biện pháp Tu Từ, Mỹ từ Pháp rất mới đối với lúc bấy giờ.
Dịch Nghĩa :
Ngồi trên thuyền nhìn lên hai bên bờ, thấy cây đều đã rụng hết lá, nhìn lên bầu trời lại thấy đàn chim nhạn bay ngang sông để về Nam. Gió bấc về làm lạnh cả dòng sông, nhà ta ở mãi tận khúc quanh của dòng Tương Thủy, cách trở xa xôi như đám mây Sở xa xa kia. Giọt lệ nhớ quê nơi đất khách đã hầu cạn rồi, nhưng chỉ thấy được có cánh buồm đơn lẻ ở phía chân trời. Nếu có muốn hỏi nơi đâu là bờ bến thì cũng không biết nơi đâu trước cảnh mịt mù của buổi hoàng hôn trong sóng nước mênh mông nầy.
Diễn nôm :
TẢO HÀN GIANG THƯỢNG HỮU HOÀI
Lá rụng nhạn xuôi nam,
Trên sông gió lạnh tràn.
Nhà ta bên Tương Thủy,
Cách trở Sở mây ngàn.
Nhớ quê dòng lệ cạn,
Buồm nhỏ trôi mênh mang.
Bến mê như có hỏi,
Sông nước chiều thênh thang !
Lục bát :
Lá rơi nhạn hướng về nam,
Ù ù gió bấc lạnh tràn trên sông.
Tương Giang quê cũ vời trông,
Ngẩn ngơ mây Sở cách ngăn mấy lần.
Nhớ quê dòng lệ cạn dần,
Buồm côi đơn lẻ chiếc thân u hoài.
Bến mê như muốn hỏi ai,
Mênh mông sông nước cho dài hoàng hôn !
Đỗ Chiêu Đức.
Bài góp vào VTT của Mai Xuân Thanh: " Trông Vời Cố Quốc Buồn Khô Lệ "
Lá rơi sãi cánh nhạn về Nam,
Gió lộng trên sông lạnh cũng cam.
Tương Thủy quê nghèo xa cách trở,
Sở mây đất sỏi trãi quan san...
Trông vời cố quốc buồn khô lệ,
Một cõi dương buồm thấy tối om !
Nếu hỏi bến mê đời vẩn đục,
Mênh mông trời nước xế chiều tàn...
Mai Xuân Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét