7 thg 1, 2023

Phí lão cắt cổ vịt - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

        Phí lão cắt cổ vịt

        Trên núi Xuân Đài, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa có động Hồ Công.

Người xưa hình như đã dựa vào thế núi và chuyện về động Hồ Công chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh giữa trần gian, mà tạc vào vách đá trên cửa động 4 chữ Hán lớn “Sơn bất tại cao(tương truyền do Nguyễn Nghiễm, anh Nguyễn Du đề bút). Nghĩa của 4 chữ Hán này dựa vào câu Sơn bất tại cao, hữu tiên tất linh - Giang bất tại thâm, hữu long tất ứng. Nôm là núi không cao mà có tiên tất linh thiêng, sông không sâu mà có rồng tất ứng nghiệm.

 

       Với chuyện tiên, rồng Liệt tiên truyện ghi:

       Đời Tây Hán, năm 206 trước công nguyên, ông Hồ Công hằng ngày uống rượu ở chợ đeo cái bầu bên hông. Tối đến vào cái bầu ấy mà ngủ. Tửu đồng họ Phí hàng ngày hầu rượu Hồ Công, một hôm xin cho chui vào cái bầu. Hồ Công bằng lòng, tửu đồng họ Phí thấy trong bầu như cảnh thần tiên rất ngạc nhiên. Hồ Công nói: “Ta là tiên bị đầy nên tạm ngụ ở đấy”. Họ Phí xin học đạo tiên và được dẫn lên núi tu luyện. Khi tạm biệt, Hồ Công trao cho Phí Trường Phòng cây gậy tre, có phép thâu ngắn đường đi.

       Trong Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn có câu: Hận vô Trường Phòng xúc địa thuật, bà Đòan Thị Điểm diễn Nôm là: Gậy rút đất dễ khôn học chước.

      Họ Phí rày đây mai đó bên quán rượu, đồ nhắm ê hề thịt chó, nhưng không có tiết canh vịt. Năm ngày chày tháng, họ Phí nay là Phí Trường Phòng, cưỡi cây gậy tre hóa rồng bay về thổ ngơi bản quán.

        ***

       Đời sau tại đất Hút-tân có Phí lão ông là người quên cả thổ ngơi, tên họ. Phí lão làm quan ba mươi tư năm, lui về Trúc gia trang ở ẩn. Chốn tây viên có ao sen, dăm bụi trúc. Tuổi mới chớm già, chưa đến nỗi lẩm cẩm. Tính thích rượu, văn phú. Bởi theo cao tằng tổ tổ Phí Trường Phòng của Phí lão qua: “Cuộc thế công danh mơ tưởng hão - Bầu rượu phong nguyệt thú vô cùng”. Vợ nhà thấy uống nhiều quá nên ngăn can. Bèn nói: "Nếu ta hám lợi, lại một phen nhọc nhằn vào kinh, lăn lộn trong chốn đô hội. Thưở hàn vi, đồ thư nửa gánh, chả đâu vào đâu. Bằng một sớm lại vương vào cái hư danh. Nay ta trong cuộc rượu, nhưng không có hại. Nếu bỏ cái nhân sinh quý thích chí còn gì ra cái hồn người, lấy gì mà mua vui lúc tuổi già cám cảnh đây.

        Nói xong, chẳng bận lòng, ra chum tắm. Vào nhà khăn đóng áo dài, đứng trước bàn thờ vái bài vị: Lưu Linh (xem tr 6). Rồi Phí lão nhắc vò rót rượu, uống vài chén cho say tít cù lỳ. Say rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại uống, uống rồi lại say, say với tỉnh cứ gối đầu lên nhau. Bởi thế coi cuộc đời như giấc mộng, coi phú quý tựa mây bay, lúc nào cũng li bì mờ mịt. Bấy giờ là ngày mồng 5 tháng 5, Phí lão tuổi Giáp Thân, nay sáu mươi chín, tóc đã bạc, răng khuyết bốn, năm chiếc, mà cái vui trong tửu lượng vẫn chưa suy.

      Bèn ngoảnh lại bảo tế quán: Thì như bà biết đấy, ta xưa nay chuyên lo mài giũa ngôn từ, chuyên công làm văn, tuổi xanh làm phú. Thịt chó ta ăn đã mòn răng, mà ăn cái giống ấy ta lại hay…ủng oẳng với bà. Bà làm cho ta đĩa tiết canh vịt được chăng? Thế là bà ra ao nhúm con vịt chéo hai đầu cánh khép vào nhau là vịt đamg kỳ phát dục. Nếu được “vịt cỏ” Vân Đình, Thăng Long, nơi ông ứng thí năm nào thì hay biết mấy.

       Phí lão ông đang định hãm tiết hai thìa nước với một thìa mắm. Vừa lúc bà tóm cổ được con vịt chéo cánh bự sự nên ông bơ bải pha bốn thìa nước, hai thìa mắm. Trong khi bà lom khom dốc đầu con vịt, ông hấm húi nhổ lông cổ vịt, miệng thổi phù phù cho sạch lông. Tiếp, ông cầm con dao bổ cau cứa cổ vịt xọet môt cái để tiết chẩy nhanh, nếu không, tiết chẩy nhỏ giọt sẽ bị bầm đen. Gọi cứa cổ xọet thế, nhưng phải lượng tay vì cắt chạm tới cổ họng, chất dơ ở cổ họng sẽ làm bát hãm tiết bị lợn cợn bọt. Xong, ông nhét đầu con vịt vào cánh, đứng lên, ông đảo con vịt 4, 5 năm vòng cho nó chóng mặt để ngủ quên trong cõi tĩnh mịch. Trong khi ấy bà hứng tiết vào bát, để cho tiết khỏi bị đông, bà khuấy đũa thật nhẹ. Vừa khuấy bà vừa lâm râm như khấn vái: “Bà báo đời cho mày biết nhá, vịt nhỡ nhỡ cỡ mày, bà phải cắt cánh mới có tiết. Gặp vịt già cốc đế cỡ ông nhà mày thì bà…cắt cổ”. Bà vào bếp luộc vịt để nhổ lông. Đang đứng đợi nước sôi, hốt nhiên bà nói: “Ông lấy…cái ấy đi”. Ông lên nhà lục lọi một hồi lâu lấy…cái nhíp mang xuống. Bà nhăn nhúm: “Giời ạ! Cái này để nhổ lông vịt già. Còn vịt non thì dùng cái ấy…ấy”. Ông lại thủng thẳng lên phòng thờ tự lấy “cái ấy ấy”. Bà hơ lửa…cái ấy ấy đủ nóng. Bà lăn lăn cái ấy ấy lên thân con vịt làm sạch mớ lông còn sót lại và vừa nói chuyện với…ông thì phải: “Ông trước kia còn răng cỏ, làm nhân cổ vịt nhai được. Bây giờ chọm chẹm rồi nhân tiết canh cứ theo các cụ mình mà làm”.

        Nhân chuyện cắt cổ vịt, Phí lão ông hồi nhớ lại cái năm động giời ấy:

       “…Chuyện nhằm vào cái năm thi Hương ở Trấn Kinh Bắc, nếu qua được bốn trường được gọi là ông Cống. Phí lão xuống Thăng Long xin sâm. Tới Hồ Gươm, vào Ngọc Sơn Từ có điện Văn Xương, nơi các sĩ tử thường tới xin sâm trước khi ứng thí. Phí lão gặp…một bà thầy bói. Bà dậy rằng: “Văn Xương đế quân linh hiển báo ứng không sai, nay mai Thầy tiến kinh nếu có thỉnh nguyện điều gì, Thầy lạy bà ba lạy”. Phí ông nổi hung đáp: ”Ta không lạy”. Nghe thủng rồi, bà im như thóc ngâm.

       Năm ấy trường thi ra đề mục “Tứ tử lai hồi”. Phí ông ngồi trong lều cứ tơ tưởng đến bà thầy bói đẹp như Tây Thi ở hồ Gươm. Nên phóng bút…

       “Xuất kỳ Đông môn, Tây Thi bất lai. Xuất kỳ Nam môn, Tây Thi bất lai. Xuất kỳ Tây môn, Tây Thi bất lai. Xuất kỳ Bắc môn, Tây Thi bất lai. Tây Thi lai hồ?. Tây Thi lai hồ?”.

        Đang lõm ngõm với quá khứ lai hồi, bà sai Phí ông lấy đĩa đựng nhân tiết canh. Bà hỏi ông: “Hồi nãy ông pha 4 thìa nước, 2 thìa mắm phỏng”, bà hỏi vậy vì tùy theo tiết của con vịt nhiều hay ít, đĩa tiết canh đông đặc hay lỏng le hoặc mặn hay nhạt. Ngỡ xong, bà lại nhờ ông múc cho bà bát nước sôi để lát nữa hòa với bát hãm tiết. Bát lớn bát nhỏ tùy theo đĩa to đĩa bé, bá quan bá tính, có người thích tiết canh mỏng cho thanh cảnh, có người thích tiết canh dầy cho ngập mồm này kia, kia nọ.

       Bây giờ Phí lão mới động giời, động thổ về trường thi với văn bài khi xưa:

       “…Câu ấy nghĩa là: Đi ra cửa Đông, Tây Thi không đến. Đi ra cửa Nam, Tây Thi không đến. Đi ra cửa Tây, Tây Thi không đến. Đi ra cửa Bắc, Tây Thi không đến. Nàng có đến không? Nàng có đến không?. Khảo quan chấm thi đọc thống khoái quá thể, liền hạ bút phê: “Trí chi nhất đẳng, vô thị lý dã. Trí chi nhị đẳng, vô thị lý dã. Trí chi tam đẳng, vô thị lý dã. Trí chi tứ đẳng, vô thị lý dã. Tú tài khứ hĩ. Tú tài khứ hĩ ”. Nôm na là: Xếp bài hạng nhất, thật là vô lý. Xếp bài hạng nhì, thật là vô lý. Xếp bài hạng ba, thật là vô lý. Xếp bài hạng tư, thật là vô lý. Tú tài trượt rồi. Tú tài trượt rồi.

      Năm ấy Phí ông…trượt rồi, trượt rồi, mấy năm sau trở lại. Chợt nhìn dưới hồ vừa rùa, vừa vịt cò, tức vịt lông trắng, vịt cà cuống, tức vịt lông xám xanh đang bơi, ông bèn hỏi bỡn bà biết cắt cổ vịt chăng? Bà ngẫn ngẫn…cắt cổ ông còn đuợc nữa là…con vịt. Thế là ông lạy bà ba lạy, năm ấy ông hóa thân thành ông Cống thật.

         Ông ôn cố tri tân một mẻ như “vịt chống gậy” đến đây, vừa lúc bà lâm râm: “Các cụ ta dậy muốn đĩa tiết canh đông có thể đem xỏ lạt treo lên được, nên bà phải băm…mày thật nhỏ, thịt đùi dàn đều vào đĩa cho mịn để…ông Cống nhà mày xơi. Nếu không chỉ tổ ông Cống nhà mày được thể lại nhiếc cho là các mụ vợ già nhà ta giống miếng thịt vịt già luộc dối, đã hoi lại dai như chão ấy. Nếu nhân tiết canh chỉ lòng, mề không thôi dai nhanh nhách, ông Cống nhà mày răng cỏ chỉ còn…lợi sao mà…nhai”.

       Nghe chối tai sao ấy, mặt như bát tiết canh sũng nước, Phí lão bỏ lên nhà trên. Không hay biết, bà…lề mề với cái mề vịt: “Mày không biết chứ nhân tâm nan mô áp đồn nan bác là tâm người khó rờ, mề vịt khó lột. Ấy là bà học lóm ông Cống nhà mày đấy”. Bà nói đay với con vịt đã tan tác đâu vào đó: “Bà theo đạo Bụt, bà không sát sinh nhưng bà…phóng sinh mày để ông Cống nhà mày nhắm rươu. Mày không biết ấy chứ…”. Vẫn không biết ông “biến” rồi, bà tiếp: “Không nói ông cũng biết thừa đĩa tiết canh chả thiếu hành nướng chín để tăng độ bùi ấy mà”. Bà nói với bát tiết: “Nếu mày lụng bụng như óc trâu, bà phải đào cây xả cả rễ nhúng vào bát tiết để hút hết bầm đen”.

      Đổ tiết bát tiết canh, bà chăm bón cứ 1 tiết, 2 nước, rồi  chan đều lên mặt nhân. Bà lấy đũa thọc thọc vào đĩa nhân cho tiết chui tọt xuốg đáy đĩa. Bà lập cập: “Tiết canh đông rồi thêm rau húng, mùi tàu, vài lát gan thái mỏng”. Với tay quơ chai nước mắm. Biết ông Cống không còn ở bếp nữa, bà rù rì với...bát nước mắm: “Thịt vịt phải chấm với nước mắm gừng. Pha nước mắm gừng cũng nhiêu khê lắm ấy nhá, vì gừng phải giã nhừ, thêm chanh, đường, ớt. Bà chỉ quơ dăm vòng đũa là bát mắm gừng nổi bùng lên ngay, dậy thơm ngào ngạt...Ấy là ông Cống mày nói thế, chứ bà có nói năng gì đâu”.

      Vừa lúc Phí lão lọ mọ vào bếp. Bà tặc lưỡi: “Dào, ăn thịt vịt mà uống rượu Nganglàng Ngang thì…ngang phè phè ra ấy. Bà hóng hớt: “Giời ạ, quên bu nó mất khoản rượu. Hay ông chịu khó đi mua nhá”. Rồi bà phủi tay đi lên nhà trên thắp nhang để tụng kinh sám hối vì lỡ…sát sinh.

       ***

 
Thế là Phí lão thọc cây gậy tre rút đất vào giữa hai háng, cây gậy như con rồng bay sang đất…Tàu mua rượu. Mấy khắc sau đáp xuống phủ Giang Tô có lữ quán tên Diêm la vương khai tửu. Dòm yết bảng treo ở cạnh cửa viết lằng ngoằng tên những danh tửu như Thiên hạ đệ nhất Ô Trình tửu, Cam Tuyền giai nhưỡng tửu,…bèn bước vào. Phí lão bắt gặp một đại nhân ngồi bên bàn, trước mặt là thùng rượu gỗ đen Thiệu Hưng hắc tửu, và cái bánh bao to bằng cái bát. Vừa lúc đại nhân ngâm nga đầy hào sảng: “Đang uống rượu, nhìn ra cửa những nấm mộ bị tuyết phủ tới ba bốn tấc, vừa lúc bạn rượu bước vào. Chẳng khoái ru?”. Phí lão ông biết ngay đây là Kim Thánh Thán.

Chợt nhớ đại nhân đây là ngự sử văn đàn qua Lục tài tử thư, phê bình từ Sử ký của Tư Mã Thiên, đến Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Phí lão bèn thủ lễ:

       - Tại hạ họ Phí, người xứ An Nam, đã ngưỡng mộ tiên sinh bấy lâu.

       Dòm thùng rượu, Phí lão có ý tìm bạn rượu mang về nhà nhậu nên quắn đầu:

       - Nay xin thưa ở bản quốc có món ngon hơn bánh bao nhân thịt trâu trên bàn kia. Từ con trâu, quý quốc tha ma mộ địa chỉ có món “Cát kê yên dụng ngưu đao” là cắt tiết gà há dùng dao mổ trâu, thì bản quốc có món…cắt tiết vịt. Thưa tiên sinh.

       Được thể Phí lão học Tàu cấm giả lịnh giả thị, là ai cấm người mang bị nói khoác. Phí lão bèn huếch đất An Nam ở tửu địa Quảng Trị thời vua Thiệu Trị có đế Kim Long. Tửu địa Bình Định thời vua Minh Mạng có đế Bàu Đá. Tuy nhiên Phí lão dấu biến bởi rượu dấu trong lùm mọc toàn cây đế, nên được gọi là…rượu đế.

        Tuy nhiên, Thánh Thán nghe hoảng nghe tiều ta có rượu vua nên Thánh Thán hỏi lại cho chắc ăn: “Đế có phải là…vua không?”. Thế là Phí lão một tấc tận giời còn hơn…vua nữa. Bởi dân bét rượu nào có sợ ai Hiu hiu gió thổi đầu non - Mấy cha uống rượu là con Ngọc Hoàng. Nghe thủng rồi, Thánh Thán mà rằng nước Tàu từ thời Tam hòang ngũ đế không có…rượu đế. Thiệu Hưng Tửu có từ thời Chiến quốc. Mai Quế Lộ từ thời Tam Quốc. Mao Đài Tửu từ thời…Mao Trạch Đông.  Thánh Thán la tóang lên:

     - Hảo tửu! Hảo bằng hữu! Mà di chân đường Phí quân ở phương nao?

       Đọan Phí lão bảo Thánh Thán ngồi lên cây gậy nhắm mắt lại. Một khắc sau về đến Bắc Ninh, dọc đường làng chum, vại rượu lớn, nhỏ xếp thành hàng lối. Hai bên cổng làng có hai câu đối: Vân hương mỹ tửu lừng biển BắcVạn Vân như nguyệt rạng trời Nam. Vào đình làng có bốn chữ đại tự “Vân hương mỹ tửu”. Phí lão thiên tải kỳ bút cho Thánh Thán hay vua Lê Hy Tông năm Chính Hòa thứ 24 (1703) phong cho danh tửu ở tửu địa Kinh Bắc này. Ấy là rượu làng Vân tiến vua, là rượu nếp cái hoa vàng chỉ trên cánh đồng làng Vân Xá mới có. Nói rồi Phí lão thửa hai vại Vân hương mỹ tửu.

       Với ô túy cương tửu là ghét say sưa nhưng lại thích uống rượu. Thánh Thán nói:

       - Hảo tửu! Hảo tửu a! Mà gia hương đường Phí quân nơi nao?

        Về đến nhà, Thánh Thán bê cả vại rượu lên hít hà:

       - Quả thật tửu quốc đây của quý quốc nào khác gì Bồ Đào tửu của Thổ Lỗ Phồn Tây Vực. Hừm! Mỹ tửu quốc này cũng 10 năm chứ không ít. Hảo a! Hảo a!

       Phí lão ông lụm cụm:
      
- Rượu bản quốc hạ thổ gắn kín như thế, sao tiên sinh ngửi thấy được?
     
Kim Thánh Thán mỉm cười đáp:
     
- Rượu trong vại kín nhưng với tri kỳ hương, bản chức dùng mắt…nghe được..

      Phí lão ra điều mình là hậu bối của Phí Trường Phòng nằm ngủ trong hồ lô rượu:

      - Tại hạ nằm trong cái túi càn khôn tung hê hồ thỉ bốn phương trời uống rượu rách mép mà không hay Vân Hương mỹ tửu đã hạ thổ 10 năm. Nay xin thưa.

      Học Phí lão học Tàu với…cái bị nói khóac, Thánh Thán tam toạng:

      - Rượu qúy quốc chôn sâu dưới đất 10 năm, không cần moi lên nhưng với tri kỳ ảo, bản chức có thể dùng tai nghe được…vị ngon của rượu..

         Thánh Thán lại học Ta với rượu không say, say vì chén:

        - Tuy có rượu ngon, nhưng lại không có chén tốt, thật đáng tiếc!

        Vì rằng ở cái thế lao dật của Phí lão là biện tửu bất nan, thỉnh khách nan, thỉnh khách bất nan, khoản khách nan, là bày rượu không khó, mời khách khó, mời khách không khó, đãi khách khó…khó thế đấy. Nghe rồi “khách” đã “khoản khách nan” rằng:

       - Uống rượu cần tửu cụ. Uống Thiệu Hưng trạng nguyên hồng phải dùng chén phỉ thúy. Uống Bồ đào mỹ tửu phải dùng chén dạ quang, thưa các hạ.

       Phí lão bụng bảo dạ Tàu làm quái gì có chén dạ quang. Bởi cứ ăn ốc nói mò câu dục ẩm tì bà mã thượng thôi tích từ người Mông Cổ vừa cưỡi ngựa vừa uống rượu đâu có chén bát nên cưa sừng bò, sừng trâu làm chén. Vì sừng bò, sừng trâu có chất lân tinh nên Tàu gọi…linh tinh là Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi ấy thôi.

       Làm như vô tri thời bất mộ với ý người ta không mến mộ cái người ta không biết đến…sừng bò, sừng trâu. Thánh Thán chỉ vại rượu mà rằng:

      - Rượu qúy quốc là rượu thâm niên cổ đại phải dùng đấu lớn mà uống, mới lộ ra được cái khí khái, khí phách, cổ nhân đã nói như thế, thưa Phí quân.

       Nghe láo quáo…cổ nhân nói thế, chẳng cần biết cổ nhân là ai, nói thế nào. Vì vậy Phí lão vào bếp moi ra được hai cái đấu gỗ thường ngày tiện nội dùng để đong gạo. Nhìn thấy hai cái đấu gạo để…uống rượu rồi, Thánh Thán yên chí ngồi trên chiếu kiểu thiền tọa, tức ngồi để hai bàn chân ngữa gác lên vế. Phí lão thấy hay hay bèn hỏi. Thánh Thán giải luận ấy là kiểu ngồi “phu tọa” của tửu đạo. Vì Kinh tửu có câu phu tọa nhàn song tửu nhãn khai, là ngồi thiền song vẫn mở mắt…nghe hơi rượu là thế…

        Sau khi ấn chứng về cách ngồi của đạo rượu, bỗng dưng không đâu Phí lão nhũn não với học châm tửu ý, là học cách hầu rượu. Bởi qua chén thù chén tạc, bên chủ "tạc" là mời rượu. Bên khách "thù", chẳng hẳn…thù hằn gì nhau mà là uống đáp lễ. Chưa kịp bày tỏ cái lễ của đạo rượu, khách nhòm chủ ra ý nhất nhân bất ngật tửu là một người không…uống rượu được. Rồi nói vấy sự pha thuyết xuất. Tửu phạ châm xuất, ra cái điều việc ngại nói ra, rượu ngại mời rót.

       Vừa lúc nội nhân Phí lão mang bát đũa ra, Thánh Thán mà rằng:

       - Phí tào khang đã cơ công, thường kính nhường hậu kẻ sĩ này quá hậu hĩ. Nên bản chức lại nhớ đến chuyện phu nhân của danh tửu Lưu Linh.

       Cầm đấu rượu lên, Thánh Thán kể lể:

       - Lưu Linh học rộng, tài cao không hề màng danh lợi như…Phí quân đây. Lưu Linh uống rượu triền miên, phu nhân thấy chồng uống nhiều quá nên can ngăn. Lưu Linh xin vợ được uống một lần cho say khướt, rồi chừa. Lưu Linh khấn trước bàn thờ:

       Trời sinh Linh này
       Lừng danh kẻ say
       Mỗi lần một hộc
       Năm đấu đưa cay
       Lời can của vợ
       Ngang trời gió bay...

       Khấn xong, uống say mèm, lăn ra ngủ. Ngủ dậy, Lưu Linh viết Tửu đức tụng được coi như một áng danh văn về rượu trong văn học Tửu thi, thưa Phí tào khang.

       Đột nhiên Thánh Thán bảo: nhất tâm tưởng ngật áp nhục. Nghe lạ! Bèn hỏi? Thì được biết Thánh Thán đây tơ tưởng đến thịt vịt từ lâu. Trả lời xong, Thánh Thán đổi thế ngồi chồm hổm, hai chân trước lom khom chống đất, lưng gù gù. Phí lão dằn bụng không đặng! Bèn vấn nữa. Thánh Thán đáp: lạn hà mô tưởng ngật áp nhục là…là con cóc đang mơ tưởng thịt vịt đó.

       Hiểu ý, tiện nội mang thịt vịt luộc ra…Phí lão nói tế quán xuống bếp bê đĩa tiết canh lên. Có tiết canh là có chuyện…Chuyện là có con ruồi đậu trên đĩa tiết canh. Thánh Thán bảo: “Mở cửa sổ cho ruồi bay ra, chẳng sướng lắm ru?”. Thế là Phí lão đứng dậy đi mở cửa… Vừa về chỗ, Phí lão bắt gặp Thánh Thán mặt nhăn quéo, gầm gừ nhìn đĩa tiết canh đỏ hoét, trông phát khiếp! Trộm nghĩ bà Từ Hy Thái Hậu lấy búa đập bể đầu con khỉ múc óc trắng hếu ăn ngon lành nào khác gì…tiết canh trắng. Thánh Thán thầm cho rằng người An Nam ăn tiết canh vịt cả 4000 năm văn hiến với văn hóa ẩm thực nào có chết ai đâu? Nên nhắm mắt, nhắm mũi múc một thìa tiết canh ăn bừa chẳng thống khóai tí nào. Nhưng mồm miệng vẫn…“Hảo a. Hảo a”.

       Kim Thánh Thán…hảo ý, hào sảng tiếp.

       - Đang uống rượu với bạn hào sĩ, tôi đã nửa say, do dự không biết nên uống nữa hay ngừng. Một tửu đồng đứng bên, hiểu ý mang rượu ra… Chẳng cũng khoái lắm ru?

        Nghe mà cảm khái quá thể, Phí lão bỏ xuống bếp vác vại rượu lên và ớ ra Thánh Thánh…biến mất. Dòm ra cửa. Cửa mở. Ở cái bu cửa: Cây gậy tre rút đất cũng…biến mất tiêu. Bỗng dòm thấy tờ giấy hoa tiên. Bèn mở ra đọc: ngật hoàn liễu tựu tẩu, hiểu Nôm là hốc no rồi cút. Khi không cây gậy xúc địa thuật bị thuổng mất. Phí lão láo ngáo tới câu thứ 11 trong 33 thống khoái của Thánh Thán: “Sáng sớm thức dậy, nghe vợ nói rằng có người mới chết đêm qua. Tôi liền lên tiếng hỏi ai chết, thì chính là tên trộm trong làng. Chẳng khoái ư?”.

       Thấy sự thể vậy, tiện nội chỉ bài vị viết “Lưu Linh, người đời Tấn mất năm 270”. Phí lão lõ mắt dòm bức tranh truyền thần, trộm thấy Thánh Thánh i xì Lưu Linh.

       ***
Cả ngàn năm sau Sử ký tân biên của Tư Mã Thiên hiệu đính rằng nay hao tổn tâm sức bởi lẽ Tửu sử  tam sao thất bản vì vậy ít ai hay Lưu Linh lặn lội trong bể hoạn, nên phải gánh chịu nguy cơ nổi chìm như sau:

Vốn dĩ Lưu Linh tiên sinh đại nhân lấy trời đất làm một buổi, muôn năm làm chốc lát, lấy mặt trăng, mặt trời làm cửa ngõ, lấy thiên hạ làm đường: Đi không thấy vết xe, ở không nhà cửa, màn trời, chiếu đất, thích thế nào làm thế. Lúc ở nâng chén, cầm bầu. Lúc đi vác chai, xách nậm, lúc nào cũng chỉ có việc rượu chè, không thèm biết đến sự đời gì nữa.


       Cùng thời có Phí lão gia, xưa thật là xưa là hậu duệ của Phí Trường Phòng, quê gốc làng Tìm, phủ Thái Bình. Thưở sinh thời Phí lão lận đận con đường họan lộ rút cuộc chỉ là ông đồ bát nháo nên đâm ra bất đắc chí không thiết gì thi cử nữa, tiến vi quan thối vi sư. Phí lão gia an phận thủ thường, chẳng màng đến mài mực ra mà kiếm gạo. Phí lão gia cứ vạn sự giai không, cứ nằm co với mo cơm tấm, ấm ổ rơm là đủ.

       Phí lão gia tự cho mình là bậc nho giả sinh bất phùng thời. Kịp đến tuổi tứ thập nhi bất hoặc, ngỡ không còn gì huyễn hoặc nữa. Bỗng dưng Phí lão gia lững thững phong kiếm quy điền, đóng cửa tạ khách, mượn hồ trường, lấy chữ nghĩa làm thú vui ẩn dật với: “Trời đất sinh ra rượu với văn - Không văn không rượu sống như thừa”.

       Nghe hơi nồi chõ tiên sinh họ Lưu như thế bèn cho người vời đến. Phủ trên huyện dưới xôn xao mà rằng nếu có hai kỳ tửu gặp nhau: Họ sẽ uống nghiêng đình đổ quán, uống cho nghiêng trời lệch đất. Rượu sẽ ngập sông, tràn ngang núi. Tửu khí ngất trời, mây không có chỗ ẩn thân. Âm khí thối đất, cỏ ba niên chẳng ngóc đầu lên nổi thì trên là trời, dưới là đất thế nào cũng kẻ còn người mất.

       Khi rày, tiên sinh họ Lưu xem Phí lão như con tò vò, con sâu róm mà thôi. Bởi lẽ tiên sinh có tài uống hàng trăm hộc mà không say nên có hiệu là Túy thánh Lưu Linh. Ấy vậy mà học Đỗ Phủ, Lý Bạch, vừa ngửa cổ ngắm trăng, vừa uống xong vại rượu Vân hương mỹ tửu thì Túy thánh Lưu Linh gục xuống thổ huyết mà…thác.

       Lưu Linh tiên sinh thường ngồi trên xe trâu, chở theo vò rượu lớn, sai người vác cuốc theo bảo nếu ông chết ở đâu chôn ở đấy. Vì vậy Phí lão gia…hạ thổ tiên sinh ngay tại Trúc gia trang. Trên mộ bia, Phí lão gia cho khắc Điếu cổ hoài kim về bạn hồ tửu:

Họ Lưu lãng tử chẳng nên tài
Vác cuốc “chết đâu chôn đó ngay”
Say khướt đã coi ngang vạn vật
Chết khô chi bận chút hình hài

         Lưu Linh sống vào đời Tấn, tên Bá Luân, tự Nguyễn Lãng. Vì là Túy thánh, nên được Hồng Nhậm Tự Đức đại vương thứ 21 sắc phong là “Đương cảnh thần hòang, thượng đẳng thần”. Miếu thần hoàng đất Hút-tân nay còn thờ cái cuốc của tiên sinh.

          ***

         Nay, món tiết canh vịt kỳ cổ của người An Nam bị thất truyền. Chỉ còn lại kỳ tích:

         Như trước đó, làm như có điềm không hay, Lưu Linh dối giăng cho con…

         - Hỡi con: hãm tiết canh vịt nhớ hai đấu “xi-dầu”, bốn đấu Thiệu Hưng hắc tửu. Nếu phép này được lưu truyền cho hậu thế thì ta còn hận gì…Phí quân nữa!

 

                                                                                           Hút-tân, Trúc gia trang

                                                                                               Giáp Thân 2004

                                                                                      Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

                                                                                      (thêm bớt 2014, 2019, 2023)

                                                                                         



Nguồn:
Nguyễn Tuân, Thiều Chửu, Nguyễn Dư

Bình Nguyên Lộc, Phạm Lưu Vũ, Nguyễn Văn Hưởng

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét