I – BẢN CHẤT CỦA PHONG THỦY TRONG KIẾN TRÚC –
PHONG THỦY
Ngày nay, mỗi chủ nhân có ý định làm nhà đều rất quan tâm đến Phong thủy, Tướng số của mình nhằm kết hợp để tạo ra một ngôi nhà “hoàn hảo và an toàn”. Để đáp ứng mục tiêu đó, họ thường tìm đến sự chỉ dẫn và tư vấn của Kiến trúc sư, Thầy Địa lý hay của những sách vở được bày bán trên thị trường. Tuy nhiên, Phong thủy là một khái niệm trừu tượng và hết sức phức tạp, khiến người chủ nhân không khỏi hoang mang khi tiếp nhận và ứng dụng chúng vào thực tế. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi Phong thủy là sản phẩm được đúc kết từ kinh nghiệm, do đó mà hình thành hai trường phái rõ rệt: “Phong thủy khoa học” và “Phong thủy dị đoan”. Trong đó, Phong thủy khoa học là những thuật toán đã được khoa học chứng thực, còn Phong thủy dị đoan lại mang nặng tính duy tâm, cực đoan và chưa có chỗ dựa khoa học vững chắc, mà chỉ tuân theo chủ nghĩa kinh nghiệm thuần túy. Vậy, điều mà chúng ta quan tâm nhất chính là tính xác thực của các thuật toán Phong thủy. Để làm được điều này, trước tiên chúng ta cần trở lại bản chất cội gốc của Phong Thủy.
Theo Kinh Dịch, bản chất của vũ trụ là “Khí”, Khí hình thành nên vạn vật, kể cả trái đất. Khí không tự nhiên sinh ra và mất đi, mà chỉ di chuyển nơi này đến nơi khác, biến đổi từ dạng này sang dạng khác mà thôi. Xét về mặt Địa khí, Khí được chia ra làm hai loại là Hung khí và Vượng khí, hay Sinh khí và Tử khí, vận động theo quy luật “Khí gặp Phong thì tán, gặp Thủy thì tụ”, mà Khí chỉ ở một trong hai trạng thái tán hoặc tụ, vì vậy bản chất của thuật xem địa lý cũng chính là xem Phong Thủy. Vậy, trong thuật Phong Thủy, thầy địa lý dựa vào các yếu tố địa hình, kết hợp với “Tàng phong tích thủy” hợp lý mà điều tiết khí sao cho thích hợp nhất với số mạng của gia chủ, cốt sao hưởng được vượng khí mà tránh được tối đa hung khí.
Bát Quái – Ngũ Hành là cơ sở tính toán chủ đạo của Phong Thủy, tuy nhiên chúng còn mang nặng tính quy ước và chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nhân cần hiểu rõ bản chất của chúng trước khi ứng dụng vào thực tế của bản thân.
PHONG THỦY TRONG KIẾN TRÚC
Trong Kiến trúc, điều cốt lõi để chọn được vị trí đắc địa chính là dựa vào yếu tố địa hình gò đồi xung quanh, bố trí cây xanh, mặt nước để điều tiết lượng gió cho phù hợp, qua đó đón vượng khí và lưu chuyển chúng lâu dài trong nhà. Ngoài ra, bản thân ngôi nhà cũng phải che chắn, đón gió và đối lưu hợp lý thông qua rèm, cửa, bố trí vật dụng để khí trong nhà cũng được tích tụ và lưu thông một cách điều hòa. Đặc biệt, để chọn được vượng khí tốt còn phải dựa vào các yếu tố khác như coi mạng số, đời sống kinh tế, địa vị,… của gia chủ, từ đó mới có hướng nhà thích hợp nhất. Bản thân vượng khí cũng phải điều tiết sao cho vừa đủ, nhiều quá hay ít quá đều có hại. Vì vậy, Phong thủy là một thuật toán hết sức phức tạp và linh hoạt, đòi hỏi người xem phải có kiến thức sâu rộng, nếu không sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm và mê tín dị đoan. Nhìn chung, kiến trúc đứng giữa phong thủy cần đạt được các yếu tố: Tả Thanh Long – hữu Bạch Hổ – tiền Chu Tước – hậu Huyền Vũ; tiền án, hậu chẩm, minh đường; sơn quần thủy tụ,…, như vậy mới là cuộc đất long mạch. Cụ thể, ngôi nhà nên nhìn mặt ra sông, tựa lưng vào núi, che chắn trước sau, hai bên có gò đống bảo vệ, nếu không thì có thể tự tạo như bình phong, bể cạn, non bộ hoặc trồng cây xanh mật độ dày mỏng khác nhau cho phù hợp.
Ứng dụng Phong thủy trong xây dựng Kinh thành Huế: Thế tọa Càn, hướng Tốn, khắc chế hướng Cấn (Quỷ môn) bằng Trấn Bình Đài, xung quanh có Sơn quần thủy tụ che chở bảo vệ, trước mặt có sông Hương làm Minh đường tạo thế đất bồi, trước – sau có núi Ngự Bình – đèo Ngang làm Tiền án – Hậu chẩm che chắn và điều tiết vượng khí, hai bên có cồn Hến và cồn Dã Viên tạo thế Tả Thanh Long – hữu Bạch Hổ bảo vệ cho Kinh thành,…
Trong mối tương quan giữa ngôi nhà và dòng chảy xung quanh, ngôi nhà có thể thích hợp với các thế đất: cự môn thổ tinh, nước cong chín khúc, nước bao kép ở phía trước, nước bao vòng, văn khúc thổ tinh là thế đất bồi, cát tướng; và nên tránh các thế đất dạng: dắt trâu, chữ bát, cung ngược, nhảy ngược, lưỡi nhô, dạng bị xói, chữ đinh ngược, dạng cầu bạch hổ, nước cong ngược, bạch hổ quay đầu… là thế đất lở, hung tướng dễ gây bất an và tai họa bất ngờ.
Một số thế đất tốt – cát tướng trong Phong thủy
Trong Phong thủy, người xem thường dựa vào mối tương quan giữa ngôi nhà và dòng chảy (dòng lưu thông của Khí) để biết được cuộc đất tốt – xấu. Ngày nay, chúng ta cũng có thể xem con đường và dòng xe lưu thông như là một dòng chảy. Thế đất tốt luôn có được một dòng chảy hài hòa, hội tụ; còn thế đất xấu lại phải hứng chịu một dòng chảy thất thường, ly tán dễ gây bệnh tật, tai họa.
Tất cả khẳng định một nguyên lý cơ bản của Phong thủy: hết sức nghiêm ngặt và vô cùng linh hoạt. Theo Phó Đức Tùng: “Trong Phong thủy, mỗi nhà, mỗi chi tiết bài trí chỉ tối ưu cho một chủ sử dụng, thậm chí trong từng thời gian từng công việc. Điều này dẫn đến yêu cầu hàng đầu của Kiến trúc là phải rất linh hoạt, dễ thay đổi, sắp đặt lại theo thời gian, công việc, chủ sử dụng. Những hình thức vách ngăn động, bình phong là giải pháp cho nhu cầu này” [5]. Nếu dựa trên những nguyên lý khoa học, kết hợp với tính linh hoạt trong lối sống người Việt, Phong thủy sẽ trở thành một đặc trưng độc đáo trong thủ pháp thiết kế của kiến trúc nước ta, và tránh dần những ma thuật Phong thủy cực đoan, phản khoa học.
II – BIỂU HIỆN CỦA NGŨ HÀNH TRONG THIẾT KẾ NHÀ Ở NGƯỜI VIỆT
Cùng với thuật xem Phong Thủy, Triết học về Ngũ Hành từ lâu cũng được xem là mối quan tâm lớn của người Á Đông trong lĩnh vực xây dựng. Trong các kiến trúc chính thống như thành quách, cung điện, đền đài…, các trạng thái của Ngũ Hành (Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ) đã được hình tượng hóa thành các biểu tượng Hổ, Quy, Long, Tước, Lân, và được thực thể hóa thành các hình ảnh núi sông, gò đồi,… cùng án ngữ xung quanh và bảo vệ cho công trình. Ở Việt Nam, khi khoảng cách giữa Vua – Tôi, Quan lại – Dân chúng không thật quá lớn, thì những văn hóa bác học đó đã được các tầng lớp lao động tiếp nhận và ứng dụng vào chính ngôi nhà của mình một cách nhuần nhị, để trở thành những nét văn hóa dân gian tuy giản dị mà cũng rất tinh tế.
Bốn vật biểu án ngữ bốn phương cùng che chở cho ba gian nhà trung tâm
Với tâm lý cầu toàn, người Việt luôn muốn một cuộc sống “có trước có sau”, trong giao tiếp phải biết “kính trên nhường dưới”, trong cưới xịn lại phải “môn đăng hộ đối”,… vậy nên trong ngôi nhà cũng phải “âm dương hòa hợp”, ngôi nhà mình ở cũng phải hội tụ đầy đủ các yếu tố của Ngũ hành thì gia đình mới có thể bình an, thịnh vượng.
Khác với Ngũ hành trong kiến trúc cung điện rộng lớn của vua chúa, các hình ảnh của Ngũ hành ẩn hiện rất linh hoạt trong ngôi Nhà ở dân gian (NODG) nhỏ bé, và được biến chuyển đa dạng thông qua rất nhiều hình ảnh khác nhau, tùy vào mức độ chăm chút của gia chủ. Trong đó, hình ảnh của Ngũ hành có thể dễ dàng nhận thấy trong nghệ thuật tổ chức tổng thể và tổ chức không gian nội thất của người xưa.
Biểu hiện đầu tiên của Ngũ hành có thể được nhận biết qua cách sắp đặt tổng thể công trình, sân vườn của người xưa. Trong quan niệm Ngũ hành, hành Kim thuộc hướng Tây – màu trắng, hành Thủy thuộc hướng Bắc – màu đen, hành Mộc thuộc hướng Đông – màu xanh, hành Hỏa thuộc hướng Nam – màu đỏ, hành Thổ thuộc trung tâm – màu vàng; vì vậy, người xưa luôn lựa chọn đặt ngôi nhà lớn Ba gian ở vị trí trung tâm khu đất ứng với vị trí Hoàng Thổ. Vì nhà thường nhìn về hướng Nam nên hai bên ngôi nhà lớn phía Đông – Tây thường là những nếp nhà ngang được bố trí đăng đối, trong đó phía Tây thường là nhà kho nơi chứa khí cụ và công cụ sản xuất của gia đình, cũng là biểu trưng cho hành Kim, trong khi phía Đông thường là nhà bếp cùng đủ loại cây trái phong phú phục vụ cho chuyện “bếp núc” của phụ nữ như: cây rau xanh, cây gia vị, cây lấy củ, cây ăn trái, cây làm thuốc,…, được coi là sự hiện diện đầy đủ của hành Mộc. Phía sau nhà gia chủ thường đào một ao cá, vừa lấy nước tưới tiêu, lấy bùn bón cây, cũng để ngâm gỗ làm nhà, và cũng là biểu hiện của hành Thủy ở hướng Bắc. Và ở phía trước nhà, giữa sân nhà gia chủ luôn ưu ái nuôi đủ loại chim thú nhiều màu sắc, hai bên sân gia chủ còn trồng nhiều khóm hoa, bonsai rất sinh động; chếch về hướng Đông là vị trí của Nhà bếp ấm cúng – tất cả đều là những biểu hiện sống động cho sự hiện diện của Hỏa trong khuôn viên ngôi nhà.
Những sắp đặt sân vườn đều là những dụng ý rất rõ ràng của gia chủ
Ngoài ra, cái Bể cạn phía trước sân – nơi tụ khí của trời đất trước khi vào nhà, cũng là nơi người xưa chăm chút để hội tụ Ngũ hành vào trong đó. Ta có thể dễ dàng nhận ra hình ảnh mặt nước – Thủy, cây thủy sinh trong bể – Mộc, cá vàng bơi lội nhiều màu sắc – Hỏa, hòn non bộ bố trí giữa bể – Thổ, mặt gương hay mặt nước óng ánh khi nắng chiếu qua mặt nước hay sành sứ trang trí trên thành bể – Kim, là các yếu tố của Ngũ hành hiện diện đầy đủ trong một bể nước tưởng chừng mộc mạc nhưng vô cùng quan trọng trong ngôi NODG xưa.
Bể cạn phía trước nhà là nơi hội tụ đầy đủ các nguyên tố của Ngũ Hành, từ lâu đã trở thành hình ảnh quen thuộc trong mỗi ngôi nhà dân gian cổ truyền người Việt
Tổ chức không gian nội thất ngôi nhà cũng mang đầy đủ các yếu tố của Ngũ hành, với những bố trí sắp đặt có dụng ý rất rõ ràng, đặc biệt là xung quanh gian thờ trung tâm. Từ ngôi nhà khung gỗ, nền đất biểu trưng cho Mộc, Thổ luôn hiện diện trong ngôi nhà, người xưa còn tinh ý trang trí thêm những bức liễn vàng son, trên khám thờ luôn đặt hai ngọn đèn thắp sáng cho không gian thờ tự để mang hơi ấm của Hỏa đến ngôi nhà. Trên hệ vách ván gỗ, liên ba gia chủ thường trang trí, khảm sành sứ, xà cừ lấp lánh đẹp mắt; và ở giữa phía trước bàn thờ không bao giờ thiếu bình gốm được đặt trang trọng, bên trong luôn đầy ắp nước và những bông hoa nhiều màu sắc, tất cả đều thể hiện một dụng ý rất rõ ràng về việc tạo lập đầy đủ hình ảnh của Ngũ hành tuần hoàn trong ngôi nhà.
Gian thờ trung tâm mộc mạc là nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố của Ngũ hành
Tất cả những biểu hiện trên cho thấy, dù không chính thống, nhưng những người nông dân chất phát xưa đã biết vận dụng ý nghĩa của Ngũ hành vào trong ngôi nhà của mình thật linh hoạt và ý tứ. Những biểu hiện mang tính dân gian này được thời gian hun đúc, đã trở thành những quy tắc bất thành văn và hiện diện trong ngôi nhà như là một điều hiển nhiên vậy. Và trong chừng mực nào đó, những giá trị truyền thống này có thể được vận dụng vào trong những thiết kế đương đại của người Việt ngày nay!
III – NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT SÂN VƯỜN CỦA NGƯỜI VIỆT XƯA – TRIẾT LÝ VŨ TRỤ LUẬN TRONG NHÀ VƯỜN XỨ HUẾ
“Thoạt nhìn, cây cối trong vườn có cảm giác chen chúc, tưởng chừng không được sắp đặt gì, nhưng nếu quan sát kỹ thì chúng được lựa chọn, bố trí theo một quy luật hết sức tinh tế – đó là sự hòa lẫn, nương tựa giữa cây cao và cây thấp, cây rễ cọc và cây rễ chùm, cây tán thưa và cây tán dày, cây ưa nắng và cây ưa bóng râm,… để cùng chung sống và tận dụng những khoảng trời ít ỏi trong khu vườn không lấy gì làm rộng rãi…”
Nghệ thuật vườn Việt
Cùng với nhu cầu làm đẹp cho ngôi nhà, những chủ nhân ngày nay cũng rất quan tâm chăm chút cho mảng xanh sân vườn xung quanh nhà mình. Làm vườn và tổ chức sân vườn dần trở thành một nhu cầu thẩm mỹ quan trọng đối với mỗi gia đình. Và như một lẽ tự nhiên, những câu hỏi về “tinh thần dân tộc” lại được nêu ra như là một sự khẳng định cho lòng tự tôn dân tộc của mỗi người dân Việt. Vậy, vườn Việt là gì, làm sao để tổ chức sân vườn mang hơi thở Việt Nam?.. Không phải chủ nhân nào cũng có câu trả lời thỏa đáng. Điều này cũng dễ hiểu, bởi trong khi chúng ta chưa có một lý thuyết vững vàng về nghệ thuật tổ chức sân vườn, thì đã chịu sự tác động mạnh mẽ của các lý thuyết trên thế giới, đặc biệt là sự xâm nhập của nghệ thuật “vườn Trung Hoa”, và nghệ thuật “vườn khô – vườn thiền” Nhật Bản. Thực tế, nhiều người am hiểu chúng còn hơn cả những hiểu biết về khu vườn Việt, mải mê làm vườn Nhật mà quên đi rằng: đã và đang tồn tại một nghệ thuật “vườn rừng, vườn tạp” vô cùng độc đáo của người Việt xưa, vẫn nép mình trầm mặc trong những ngôi Nhà vườn xứ Huế.
Đỉnh cao Nhà Vườn – Một vũ trụ thu nhỏ
Nếu chỉ là một ngôi nhà Rường thuần túy thì từ Bắc chí Nam đâu đâu cũng có. Thế nhưng ở xứ Huế, được sở hữu bởi những danh gia vọng tộc với lối sống thanh tao, nhuần nhị, ngôi nhà rường đã được phối kết vào trong một không gian vườn tược tưởng chừng như rất dân dã mà lại vô cùng triết lý, làm nên thương hiệu “Nhà vườn Huế” nức tiếng gần xa. Thật không ngoa khi xem nhà vườn xứ Huế như là một vũ trụ thu nhỏ, bởi toàn bộ những triết lý sống của con người xứ Huế đến những quan niệm về vũ trụ luận đều được họ vận dụng hết sức nhuần nhuyễn, để kiến trúc gắn kết chặt chẽ với thiên nhiên xung quanh trở thành một tổng thể hoàn chỉnh, vừa lạ lại vừa quen.
Trong khi người Trung Quốc xem kiến trúc chỉ là một bộ phận trong tổng thể thiên nhiên hùng vĩ, người Nhật xem kiến trúc là nơi để họ nép mình chiêm ngưỡng sự thâm sâu của những khu vườn thiền; thì người Việt lại xem ngôi nhà là trung tâm của toàn bố cục. Chính vì vậy, kiến trúc luôn được ưu ái đặt ngay giữa khu đất nơi cao nhất, biểu thị cho vị trí “long mạch – trung tâm của vũ trụ”; và sân vườn, ao hồ được bố cục xung quanh, tầng tầng lớp lớp che chở cho hạt nhân của chúng.
Thoạt nhìn, cây cối trong vườn có cảm giác chen chúc, tưởng chừng không được sắp đặt gì, nhưng nếu quan sát kỹ thì chúng được lựa chọn, bố trí theo một quy luật hết sức tinh tế – đó là sự hòa lẫn, nương tựa giữa cây cao và cây thấp, cây rễ cọc và cây rễ chùm, cây tán thưa và cây tán dày, cây ưa nắng và cây ưa bóng râm,… để cùng chung sống và tận dụng những khoảng trời ít ỏi trong khu vườn không lấy gì làm rộng rãi. Việc trồng cây gì cũng là dụng ý rất rõ ràng của gia chủ: hệ cây dại có ích được giữ lại như rau má, mã đề, rau trai, me đất, ngò tây, rau rìu, rau éo,… có thể sử dụng được hoặc xua đuổi rắn rết; những cây hoa phục vụ phong tục tín ngưỡng như phượng cúng, hoàng anh, mõ keo, hoa chuối, vạn thọ,…; hoa cảnh có hoàng mai, phong lan, địa lan, hồng, cúc, sung, sen, súng,…; hoa lấy hương như dạ lý, hoàng lan, ngọc lan, quỳnh, bại hoại,thược dược,…; cây dược liệu để trị bệnh hay làm gia vị như ngải cứu, hành, riềng, sả, ớt, vả, rau tờn, long tu, lá lốt, rau thơm, rau răm, húng, quế, huyết dụ,…; cây dùng làm lá gói hoặc nguyên liệu bánh trái như lá dong, lá gai, lá chuối,…; cây cảnh tạo thế không chỉ có mai, tùng, bách, trúc, sanh, si, mân (lộc vừng) mà còn có cây của vùng gò đồi như sim, mua, tràm, chổi,…; cây ăn trái có cả đào (mận), đào tiên, cam sành, thanh trà, nhãn lồng, vú sữa, cóc, ổi, chanh, mít, dừa, cau, chuối,…; và không kém phần quan trọng là các loại rau xanh, cây leo, cây lấy củ như xà lách, cải, khoai lang, bí, bầu, mướp, dưa lê,… do phụ nữ đảm trách. Ngoài ra, gia chủ cũng kết hợp trồng các loại cây lấy gỗ nguyên liệu xung quanh vườn như sầu đông (xoan), mít,… vừa để tạo bóng mát quanh nhà. Tất cả hiện lên như một bức tranh thiên nhiên sống động nhưng có chủ ý của chủ nhân. Việc loại bớt hay thêm cây nào vào khu vườn phụ thuộc rất nhiều vào niềm đam mê cũng như quan niệm, tướng số và điều kiện sống của mỗi gia đình.
Nhà vườn An Hiên : ngôi nhà được nối kết với không gian xanh tạo nên hệ sinh thái – kiến trúc hoàn chỉnh và đồng điệu. Hệ cây cao, cây bụi, cây leo,… cùng chung sống trong một mảnh vườn không lấy gì làm rộng rãi, và cùng che chở cho trung tâm của chúng – Ngôi nhà rường.
Trong nghệ thuật vườn Huế, đáng chú ý hơn cả là nghệ thuật chơi cây cảnh với đa chủng loại, được gia chủ tạo dáng thành nhiều thế đẹp mắt mô phỏng tự nhiên: thế thác đổ, đại thụ, bạt phong…; hay gửi gắm tâm hồn, triết lý vào đó: thế quân tử, uyên ương, bằng hữu, huynh đệ, phúc lộc thọ,… Người chơi cũng có thể dùng thế và dáng của cây để mô phỏng các truyền thuyết, các nhân vật lịch sử: Võ Tòng đả hổ, Trầu Cau, Thánh Gióng, Bát tiên,… hoặc bất kỳ vóc dáng gì do chủ nhân nghĩ ra và cho là ấn tượng và đẹp mắt. Cây cảnh ở Huế thường không tạo dáng quá mức thành những hình hài cụ thể, mà ẩn chứa những hàm nghĩa sâu xa bên trong cái vóc dáng rất tự nhiên, người thưởng thức phải thật am tường và có trí tưởng tượng phong phú thì mới có thể nhận biết được. Cái không rõ ràng và đầy ngụ ý đó là yếu tố làm nên giá trị của cây cảnh Huế. Chơi cây cảnh là cả một nghệ thuật và là đam mê của người dân xứ Huế, vì thế mà chúng luôn có mặt trong mỗi sân nhà.
Với sự phong phú nhiều khi đến “rối rắm” của vườn Huế, Nguyễn Hữu Thông còn gọi vườn Huế là “vườn rừng”, “vườn tạp” . Tuy nhiên, việc chọn và xếp đặt vị trí của cây trong vườn cũng mang những nguyên tắc nhất định với tính ước lệ cao:
– Vòng ngoài cùng quanh tường rào thường là các loại cây lấy gỗ, cây ăn trái lưu niên và cần ít công chăm sóc. Các loại cây này cũng góp phần tạo bóng rợp quanh nhà, cản khí trời độc hại, giảm nhiệt cho ngôi nhà mà vẫn tạo thông thoáng tốt.
– Vòng thứ hai, tập trung chủ yếu ở hai bên, phía sau nhà là các loại cây ăn trái tạo bóng râm, tán rậm và không quá cao như thanh trà, cam, ổi, đu đủ, chuối…, vừa dễ chăm sóc, thu hoạch lại đóng vai trò che nắng, chống nóng hướng Tây, và chống gió lạnh hướng Bắc rất hữu hiệu.
– Xung quanh nhà bếp và bể nước là đủ loại rau xanh, cây gia vị phục vụ công việc bếp núc tại chỗ, rất nhanh chóng, tiện lợi và an toàn. Rau xanh thường được trồng thành luống vun cao nên phải cần những khoảnh đất đủ rộng, trong khi các loại rau gia vị khác thì được trồng thành từng khóm nhỏ, đa chủng loại và có thể mọc ở khắp nơi, tận dụng mọi chỗ trống đất trống trong vườn để phát triển.
– Phía trước nhà thường được để trống tạo một khoảng sân thoáng làm khoảng thở cho ngôi nhà chính, đồng thời tạo tầm nhìn thoáng đãng ra phía trước, làm không gian tiếp đón khách. Ở hai góc sân gia chủ thường trồng một cây cao, tán rộng che nắng cho sân, đồng thời tạo thế đăng đối tả hữu. Những cành vươn ra trong tầm tay thường được tận dụng làm nơi treo những giò phong lan và những lồng chim đầy màu sắc. Dưới gốc cây, gia chủ thường đặt thêm một bộ bàn đá nhỏ làm nơi nghỉ ngơi, đàm đạo với khách và thưởng thức cảnh sắc trong những trưa hè hay những đêm trăng chờ Quỳnh hương nở muộn. Hai bên sân là đủ loại hoa lá, thường được trồng gần cửa sổ hai chái nhà để hương thơm có thể lan tỏa vào trong nhà. Để tạo thế Phong thủy bền vững, trước sân gia chủ thường cho dựng một bức bình phong tạo hình cuốn thư điệu đà như là một “nội tiền án” che chắn tầm nhìn trực diện vào nhà, đồng thời điều tiết vượng khí vào nhà. Bình phong có thể làm bằng gạch đá hoặc là một bức tường “chè tàu” được cắt gọt điệu đà, hay công phu hơn là những gốc Mai, Chuối cảnh, Mân,… được tạo dáng bình phong. Đằng sau bình phong thường có một Bể cạn vuông vắn đóng vai trò như một “tiểu minh đường” điều tiết vượng khí quanh nhà. Trong bể, chủ nhân thường tạo tác thêm hòn non bộ mô phỏng tự nhiên với nhiều kiểu dáng đẹp mắt và đầy triết lý. Trên non bộ gia chủ thường tạo tác những cảnh sinh hoạt dân gian như chú tễu chăn trâu, đánh cờ, câu cá, cầu tre, đình tạ…; hay những cảnh sắc bồng lai tiên cảnh; và một số loại cây mọc trên đá, trên nước như bồ đề, sanh, sen, súng, bèo… cũng được gia chủ trồng xen vào tạo nên những cảnh trí sinh động và ngoạn mục. Bên dưới bể cạn là những đàn cá đủ màu sắc bơi lội tung tăng, ẩn hiện sinh động. Những chỗ trống còn lại trong sân thường được gia chủ bố trí các loại chậu cảnh tạo thế đẹp mắt, là những “tác phẩm nghệ thuật” công phu mà mọi chủ nhân đều muốn khoe với bạn bè. Cái sân nhà vì vậy trở thành một “không gian triển lãm” đặc sắc của chủ nhà.
Trong tổng thể khu vườn mang tính tự do như vậy, dường như chỉ có duy nhất hai hàng chè Tàu hai bên lối đi là được cắt xén gọn gàng, đóng vai trò là “mũi tên hướng dẫn” cho khách từ cổng vào đến tận sân nhà. Hai bên đường đi gia chủ còn trồng thêm những hàng cau đều đặn vươn cao như những tán lọng che nắng, thể hiện sự trang trọng và lòng hiếu khách của chủ nhà. Để tránh nhàm chán, những khoảng trống hai bên thường được gia chủ cho trồng những khóm hoa nhiều màu sắc, và vô cùng nên thơ. Con đường chè tàu này thường dẫn đến một bên sân, hoặc nếu lối vào chính giữa thì cuối con đường là những lớp Bình phong, Bể cạn ngăn cách một cách ý nhị. Có lẽ, trong cả khu vườn thì đây là dấu ấn đậm nét nhất về sự can thiệp của con người vào thiên nhiên, với những sự sắp đặt có chủ ý nhưng vẫn vô cùng hài hòa.
Đường làng – làng cổ Phước Tích
Ngoài cùng gần hàng rào thường bố trí các loại cây thân gỗ vừa tạo bóng mát, nhưng vẫn cho tầm nhìn nhất định vào bên trong, giúp khách có được định hướng ban đầu khi vào nhà.
Phía sau nhà hướng Bắc thường là các loại cây thấp, tán dày, cho trái thu hoạch vừa để che chắn hướng gió lạnh Đông Bắc.
Nhà vườn 34 Phú Mộng – TP. Huế
Nhà ông Hồ Văn Tế – Phước Tích
Lối vào uốn lượn được cắt tỉa gọn gàng với hai hàng cau như những tán lọng che nắng cho người đi. Ngôi nhà luôn ẩn khuất đằng xa vô cùng ý nhị. Nếu lối vào trực diện thì luôn có một Bình phong che chắn rẽ lối sang hai bên.
Hai bên lối vào là những khóm cây nhiều màu sắc tô điểm sống động, đồng thời che chắn cho nếp nhà sau nó. Bước trên con đường này thì có lẽ mọi cảm giác bức bối, bực dọc nếu có cũng tan biến vào cỏ cây cả (Nhà vườn 28 Phú Mộng)
Nhà vườn Công chúa Ngọc Sơn
Sân nhà thoáng rộng tạo khoảng thở cho ngôi nhà, là nơi phơi phóng thóc lúa, nơi sản xuất thủ công nghiệp mùa nông nhàn, bên góc sân là một cây tán rộng che nắng cho sân với những giò Lan nhiều màu sắc. Cạnh gốc cây là nơi gia chủ trang trọng bố trí một bộ bàn nhỏ là nơi thư giãn, trò chuyện, ngắm cảnh vườn tược và tiếp khách thân tình. Xung quanh sân là đủ loại chậu cảnh tạo thế sinh động.
Nhà vườn Vĩ Dạ
Nhà ông Hồ Văn Tế
Bình Phong, Bể cạn không chỉ ngăn chia không gian một cách ước lệ, mà còn là nơi gia chủ thỏa mãn đam mê tạo tác nghệ thuật của mình.
Với các danh gia vọng tộc, gia đình quyền quý thì Bể cạn được mở rộng ra hết phần sân, vì sân không còn là nơi phơi phóng thóc lúa nữa (Nhà vườn An Hiên)
Điều đặc biệt là tổng thể nhà vườn xứ Huế hiện lên trong mắt người cảm nhận với một sự nhập nhằng rất Huế. Nếu đây chỉ đơn thuần là khu vườn phục vụ đời sống kinh tế thì khắp nước ta đâu đâu cũng thấy xuất hiện vườn kiểu như vậy. Ở miền Bắc là những khu vườn với việc chú trọng quy hoạch và phân bổ diện tích cho từng chủng loại cây trồng nhất định, tạo ra những vườn rau xanh mơn mởn nhưng trống trải bởi không có bóng rợp của cây cao che đỡ. Ở phương Nam lại chú trọng đến chuyên canh từng giống cây trái trên diện tích lớn phủ kín cả một vùng. Còn vượt lên yếu tố kinh tế hàng hóa, vườn Huế lại là sự xen cài của nhiều loại cây trồng phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Không thể phủ nhận vai trò vật chất của chúng trong đời sống hàng ngày, nhưng người Huế lại không cho đó là vai trò chủ yếu của khu vườn. Dường như họ chỉ chủ ý sử dụng chúng cho mục đích tự cung tự cấp, nếu có dư thì mới đem ra chợ, và trên gánh hàng ra chợ thông thường có rất nhiều sản phẩm, mỗi thứ một ít. Mặt khác, trong điều kiện khí hậu miền Trung mưa dầm, nắng cháy thì gần như không có loại cây nào có thể sai quả quanh năm. Thế nhưng, với lối sống thanh tao, chuộng tình cảm, người Huế luôn muốn có đủ loại cây trồng để mùa nào cũng có trái mà đơm lên bàn thờ tổ tiên, hay con cháu ghé thăm còn có cái mà cho, hoặc đơn giản để khoe với bạn bè khách khứa khi đến chơi nhà. Cái thú đó, vượt lên trên những giá trị vật chất, mới thực sự là nét đặc biệt trong quan niệm làm vườn của người chủ nhân, mới tạo nên cái thi vị hiếm có trong lối sống của con người nơi đây, làm nên thương hiệu Nhà Vườn xứ Huế không lẫn vào đâu được.
v Những phân tích trên cho thấy, ngôi nhà vườn xứ Huế là một sản phẩm đa văn hóa với sự đan cài giữa tính dân gian và bác học. Hay nói cách khác, văn hóa bác học ở chốn kinh kỳ đã được hóa thân vào đời sống dân gian đến nhuần nhuyễn, làm nên cái vừa lạ lại vừa quen của khu vườn.
v Nhà vườn Huế vừa là một bức tranh thiên nhiên sống động, một vũ trụ luận hoàn chỉnh, lại đại diện cho tâm hồn và tính cách của người tạo tác ra chúng. Chính vì thế mà ngôi vườn đã vượt ra khỏi giới hạn kinh tế đơn thuần để hóa thân thành một sản phẩm tinh thần vô giá. Người ta không nhắc đến khu vườn với năng suất thu hoạch của chúng, mà bởi tính đa dạng sinh thái và những ứng xử văn hóa đầy triết lý ẩn chứa đằng sau nó. Tầng tầng lớp lớp cây xanh cùng với tiếng chim ca, cá lội như là một vũ trụ sống động. Và cả vũ trụ đó cùng hướng về che chở cho hạt nhân của chúng, ngôi nhà Rường. Kiến trúc và thiên nhiên cứ thế hòa quyện vào nhau làm nên một tổng thể sinh thái đồng điệu và bền vững.
Và có nên chăng, những khu vườn Việt như vậy tiếp tục tồn tại và phát triển trong những ngôi biệt thự hiện đại ngày nay./.
Tài liệu tham khảo:
1. Phan Thuận An – Kiến trúc cố đô Huế – NXB Đà Nẵng, 2007
2. Phan Thuận An, Phan Thanh Hải, Cường Lê – Festival Huế 2008 – Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 157, năm 2008
3. Nguyễn Hà (dịch) – Chọn hướng nhà và bố trí nội thất theo thuật Phong thủy – NXB Xây dựng, Hà Nội, 1996
4. Đặng Thái Hoàng, Nguyễn Văn Đỉnh – Văn hóa và Kiến trúc Phương Đông – NXB Xây dựng, Hà Nội, 2009
5. Phó Đức Tùng – Phong thủy và Bản sắc Á Đông trong Kiến trúc – Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 2, trang 77
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét