Tác giả: Bilahari Kausikan
Dịch bệnh Covid-19 dường như đã đạt đỉnh
tại Trung Quốc. Ban đầu, Trung Quốc xử lý khủng hoảng thiếu khéo léo khi
không phổ biến thông tin, tạo điều kiện cho virus lan ra khắp Trung
Quốc và vượt ra khỏi biên giới. Nhưng các biện pháp hà khắc mà chỉ hệ
thống xã hội chủ nghĩa kiểu Lênin có khả năng áp dụng đã giúp kiểm soát
bệnh dịch, mặc dù khá tốn kém chi phí. Dù sao, Trung Quốc không phải
gánh chịu tổn thất cho tất cả các biện pháp đó. Tâm chấn toàn cầu hiện
đang ở châu Âu và ngày càng có xu hướng lan sang Mỹ. Giống như Trung
Quốc, phương Tây dò dẫm những phản ứng ban đầu. Các nền dân chủ chậm
phản ứng cho đến khi bị sốc thành hành động. Tuy nhiên, đây là những hệ
thống kiên cường với khả năng kinh tế, khoa học và hành chính mạnh mẽ,
và các hệ thống này đã bắt đầu phát huy tác dụng. Các phí tổn cho tất cả
mọi người sẽ lớn. Tuy nhiên, sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi cuối
cùng họ sẽ nắm bắt được căn bệnh và kiểm soát nó theo cách riêng của họ.
Mọi thứ cuối cùng cũng phải kết thúc. Nhưng
bây giờ chúng ta đang ở giai đoạn khởi đầu của kết thúc, hay chỉ là kết
thúc của bắt đầu? Không ai thực sự biết. Trong lịch sử, đại dịch đã gây
ra những hệ lụy đáng kể về kinh tế, chính trị và địa chính trị. Thế
giới về sau sẽ không còn như cũ. Trong diễn đàn Geo-Blog này, tôi suy
đoán về tác động có thể có của đại dịch Covid-19 đối với Đông Nam Á –
một trong những khu vực đầu tiên mà dịch bệnh từ Trung Quốc lây sang.
Mọi thứ cuối cùng cũng phải kết thúc. Nhưng bây giờ chúng ta đang ở giai đoạn khởi đầu của kết thúc, hay chỉ là kết thúc của bắt đầu? Không ai thực sự biết. Trong lịch sử, đại dịch đã gây ra những hệ lụy đáng kể về kinh tế, chính trị và địa chính trị. |
Tác động về Kinh tế
Ngay cả trước khi có dịch Covid-19, sự tăng
trưởng chậm lại của Trung Quốc đã có tác động toàn cầu. Đại dịch hiện
nay cũng đã bộc lộ tính chất dễ tổn thương của sự phụ thuộc quá mức vào
chuỗi cung ứng của Trung Quốc. Một số tập đoàn đã phòng ngừa rủi ro
Trung Quốc. Xu hướng đa dạng hóa nguồn cung đã bắt đầu trước đại dịch vì
chi phí gia tăng ở Trung Quốc, căng thẳng thương mại Mỹ-Trung và những
hạn chế an ninh mà Mỹ đặt ra cho các công ty công nghệ Trung Quốc. Nhưng
mối quan tâm hiện đã mở rộng sang các lĩnh vực vốn không có tính chất
nhạy cảm về an ninh như phụ tùng ô tô và các thành phần hoạt chất dược
phẩm.
Việc sắp xếp lại chuỗi cung ứng có thể có
tác động dài hạn lâu dài đối với quá trình toàn cầu hóa. Những gì hiện
tại không rõ ràng là mức độ mà các nhà sản xuất và nhà cung cấp nước
ngoài sẽ hoặc có thể làm giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Quá trình tìm
tòi hàng thập kỷ của Nhật Bản đối với nhân tố “cộng 1” trong chiến lược
“Trung Quốc +1” cho thấy không dễ dàng khi đa dạng hoá ra khỏi Trung
Quốc. Điều này sẽ phụ thuộc nhiều vào việc liệu Trung Quốc có thể phục
hồi sản xuất nhanh hay không và liệu sự phục hồi của Trung Quốc sẽ theo
hình chữ V hay chữ U. Chính phủ Trung Quốc đang nói nhiều về triển vọng
phục hồi nhanh chóng. Do tác động của Trung Quốc đối với nền kinh tế thế
giới, tất cả chúng ta có thể hi vọng rằng Trung Quốc phục hồi nhanh
chóng. Nhưng tôi nghi ngờ rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ nhận
thấy rằng việc đưa ra lệnh dừng sản xuất đơn giản hơn việc ra lệnh tiếp
tục sản xuất.
Chính phủ Trung Quốc đang nói nhiều về triển vọng phục hồi nhanh chóng. Do tác động của Trung Quốc đối với nền kinh tế thế giới, tất cả chúng ta có thể hi vọng rằng Trung Quốc phục hồi nhanh chóng. Nhưng tôi nghi ngờ rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) sẽ nhận thấy rằng việc đưa ra lệnh dừng sản xuất đơn giản hơn việc ra lệnh tiếp tục sản xuất. |
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) có bình luận rằng
trong khi nền kinh tế Trung Quốc đang có dấu hiệu bình thường, các hiểm
họa vẫn còn tiềm ẩn. Các chuỗi cung ứng trong Trung Quốc sẽ cần thời
gian để phục hồi. Không phải tất cả các công nhân nhập cư đã quay trở
lại làm việc. Nhiều nguy cơ sức khoẻ có thể quay trở lại nếu công nhân
nhập cư quay lại làm việc và việc đi lại giữa các quốc gia được nối lại.
Trung Quốc, giống như Đài Loan, Hồng Kong và Singapore, hiện nay đang
cố gắng để ngăn chặn làn sóng nhiễm bệnh nhập khẩu lần thứ hai. Một số
cảnh báo sức khoẻ cần thiết vẫn tiếp tục nặng nề. Các hoạt động kinh tế
dường như bắt đầu ổn định trở lại đối với các xí nghiệp lớn, nhưng vẫn
thấp đối với các đơn vị vừa và nhỏ. Hơn 90% xí nghiệp Trung Quốc có quy
mô vừa và nhỏ, chiếm 60% GDP Trung Quốc và tạo 80% công ăn việc làm. Giả
sử nếu không có sự bùng phát của dịch Covid 19 lần thứ hai, các công ty
vừa và nhỏ cũng sẽ phục hồi trở lại. Chính bởi tác động đối với sự ổn
định kinh tế, các công ty vừa và nhỏ nhận được sự quan tâm đặc biệt
trong các biện pháp hỗ trợ và kích thích mà ĐCS Trung Quốc đưa ra.
Ngày càng có nhiều biện pháp được tiến
hành. Nhưng điều này cũng có thể thúc đẩy các rủi ro hệ thống vốn tồn
tại đối với nền kinh tế Trung Quốc. Cũng không phải là quá trình hoạch
định chính sách kinh tế hoàn toàn độc lập. Các nhà hoạch định chính sách
của Trung Quốc buộc phải cân bằng giữa các tính toán đối lập trong bối
cảnh nền kinh tế toàn cầu. Theo các số liệu của Ngân hàng Thế giới, vào
năm 2018, tiêu dùng cá nhân chiếm 38,7% GDP Trung Quốc. Từ góc độ đó,
vào cùng năm, tiêu dùng cá nhân của toàn cầu dựa trên 152 quốc gia chiếm
63,6%. Rõ ràng. nhu cầu bên ngoài sẽ có tác động to lớn đến sự phục hồi
của Trung Quốc. Khi bệnh dịch lan tràn ở Châu Âu và Mỹ, nhu cầu toàn
cầu sẽ chậm lại, tác động tới tăng trưởng của Trung Quốc. Trung Quốc và
Phương Tây cần nhau để phục hồi. Ở trường hợp xấu nhất, các chính sách
thắt lưng buộc bụng liên tiếp và ngày càng tăng cường tại Trung Quốc, Mỹ
và EU có thể sẽ dấn tới suy thoái kinh tế toàn cầu.
Nếu xảy ra suy thoái kinh tế, động lực đa
dạng hóa chuỗi cung ứng sẽ ngày càng ít đi cho đến khi kinh tế toàn cầu
phục hồi. Một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu có thể sẽ kéo dài. Kể từ
cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, phạm vi áp dụng các biện pháp kích
thích từ các ngân hàng trung ương của các nền kinh tế chủ chốt, với lãi
suất vốn thấp và hầu hết các nền kinh tế lớn đều đối mặt với thâm hụt
ngân sách nặng nề. Trong bất kể trường hợp nào, liệu các biện pháp kích
thích thông thường có thể trấn áp khủng hoảng niềm tin hay không? Tuy
nhiên nếu có thể tránh được trường hợp xấu nhất và nền kinh tế Trung
Quốc phục hồi nhanh chóng, vẫn sẽ có ít động lực để đa dạng hoá ngay lập
tức.
Tóm lại, việc có những nỗ lực đáng kể nhằm
đa dạng hoá chuỗi cung ứng ngoài Trung Quốc không phải là điều hiển
nhiên, mặc dù đã có một số dấu hiệu đa dạng hoá sẽ chắc chắn diễn ra.
Đông Nam Á có thể đưa ra cơ sở sản xuất thay thế. Một số hãng đã hoàn
tất việc chuyển đổi sản xuất để tránh thuế từ Mỹ và chi phí gia tăng ở
Trung Quốc. Tuy nhiên, việc dịch chuyển sang Đông Nam Á không phải tự
diễn ra. Tình trạng “nút thắt cổ chai” (bottleneck) trong hệ thống sản
xuất cũng như lao động có kỹ năng cần phải được giải quyết. Hệ thống quy
định trong các lĩnh vực như thuế, các quy định lao động và hệ thống tư
pháp cần phải điều chỉnh theo hướng thân thiện với môi trường kinh doanh
hơn. Các vấn đề an ninh Mỹ cũng sẽ cần được giải quyết.
Các ảnh hưởng Chính trị
Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đã cho
rằng tác động kinh tế của dịch Covid-19 còn tồi tệ hơn tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Thủ tướng Malaysia, Mahathir
cũng lập luận tương tự, đề cập đến cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm
1997. Nếu những nhà lãnh đạo này nhận định đúng thì những hệ lụy chính
trị là điều tất yếu ngay cả khi không thể dự đoán bản chất chính xác của
những hệ lụy này ngay từ bây giờ -thậm chí tình hình còn tệ hơn vậy nếu
có một cuộc đại suy thoái toàn cầu kéo dài.
Cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã
góp phần dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Suharto ở Indonesia cũng như
việc Thủ tướng Malysia kế nhiệm lúc đó, ông Muhammad Mahathir đã bãi
nhiệm và bỏ tù Phó Thủ tướng Anwar Ibrahim. Ở Thái Lan, cuộc khủng hoảng
đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế và hệ thống xã hội nước này và cuối
cùng đã dẫn đến việc ông Thaksin Shinawatra, một lãnh đạo phi truyền
thống lên nắm quyền. Điều này làm dấy lên sự nghi ngờ và giận dữ của
giới tinh hoa chính trị truyền thống Thái Lan, phe đã tiến hành hai cuộc
đảo chính. Khoảng hơn hai thập niên sau, hệ lụy của những sự kiện đó
vẫn còn dư âm tại các quốc gia này. Indonesia, Malaysia và Thái Lan cùng
với Việt Nam và Philippines là các thành viên ASEAN có tiềm năng thu
lợi lớn nhất từ bất cứ sự thay đổi nào có thể diễn ra, miễn là những
nước này nắm được những điều căn bản. Nhưng liệu những nước này có thể
làm vậy không? Yếu tố quan trọng là nội trị của những nước này.
Ở Malaysia, liên minh lật đổ chính phủ của
Mahathir quan tâm đến việc chứng tỏ năng lực của mình trong quản lý nền
kinh tế. Tuy nhiên, chính phủ mới còn mong manh và đấu đá nội bộ lẫn
nhau. Việc tập trung mạnh hơn vào các chính sách thân Malaysia, thân Hồi
giáo đã khiến cho chính sách kinh tế đi theo hướng không nhất thiết có
lợi cho đầu tư nước ngoài. Indonesia vẫn chưa ổn định trở lại hậu cân
bằng quyền lực Suhharto. Tổng thống Jokowi đang cố gắng kiềm chế đảng
Hồi giáo chính trị mà ông từng giành chiến thắng ở nhiêm kỳ thứ hai,
đồng thời gắn kết nội các của mình và thúc đẩy cải cách kinh tế. Một số
đảng viên trong nội các của Jokowi dường như không mấy mặn mà về gói cải
cách kinh tế của ông. Ở Thái Lan, xung đột chính trị đã bị đóng băng,
nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để. Quyền lực vẫn là ưu tiên của
chính phủ do quân đội hậu thuẫn. Chính phủ sẽ phải kiểm soát các căng
thẳng liên tục, đồng thời phải đối phó với một vị vua mới khó lường.
Sự yếu kém của một số chính phủ trong việc
phản ứng với dịch Covid-19 gần như dẫn đến sự thụt lùi công khai và gây
ra các bất ổn chính trị trong những chính phủ này ngay cả khi tác
động tiêu cực về kinh tế của dịch bệnh được giảm nhẹ. Các bi kịch
về chính sách và chính trị trong tương lai của Myanmar và Philippines,
khi phải lần lượt đối mặt với các cuộc bầu cửnăm nay và năm 2022 vẫn bất
định.
Không ai đoán được Campuchia sẽ phát triển
như thế nào sau thời của chính quyền Hun Sen. Các nước ASEAN duy nhất có
nền chính trị cơ bản ổn định và liên tục có thể kể đến là Brunei,
Singapore, Lào và Việt Nam. Nhìn chung, đây không phải là một tình huống
mấy thuận lợi cho sự lạc quan to lớn về khả năng tối ưu hóa cơ hội tiềm
năng của khu vực.
Các hệ lụy Địa chính trị
Phản ứng chậm trễ và thiếu nhất quán của
châu Âu và Mỹ so với Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng dịch Covid-19 đã
dẫn đến một số đánh giá phóng đại về tác động của dịch bệnh đối với trật
tự toàn cầu. Ví dụ, cựu Trợ lý Ngoại trưởng của Tổng thống Obama,
ông Kurt Campbell trong một bài viết gần đây trên tạp chí Foreign
Affairs đã cho rằng việc xử lý yếu kém của Mỹ đối với cuộc khủng hoảng
sẽ tạo cơ hội cho Trung Quốc gia tăng bá quyền ở châu Á-Thái Bình Dương.
Những đánh giá mang tính báo động như vậy phản ánh sự chán ghét sâu sắc
đối với việc hoạch định chính sách đối ngoại của Tổng thống Trump, và
có lẽ là mong muốn đưa lại cho Đảng Dân chủ nhiều dư địa hơn trong cuộc
bầu cử tổng thống.
Thực tế là cả Trung Quốc và phương Tây đều
chịu thiệt hại về chính trị và kinh tế nặng nề do cuộc khủng hoảng
Covid-19. Cả hai bên bước đầu đều bị rối loạn do cố gắng che đậy hoặc hạ
thấp tính nghiêm trọng của đại dịch này. Mặc dù phản ứng của phương Tây
có thể đã tốt hơn, thì việc bất cứ nền dân chủ phương Tây nào phản ứng
với khủng hoảng tương tự như cách phản ứng của Trung Quốc là điều không
thể xảy ra. Như đã đề cập trước đó, phương Tây có cách riêng của mình và
cuối cùng sẽ kiềm chế được đại dịch. Trung Quốc và phương Tây cần nhau
trong việc hồi phục từ sự sụp đổ kinh tế.
Thật đáng tiếc khi cho rằng các chính phủ
và nhân dân ở châu Á-Thái Bình Dương quá ngây thơ hay thiếu hiểu biết
đến mức không thể đưa ra những phán xét đầy sắc thái như vậy, và sẽ chấp
nhận mù quáng luận điệu tuyên truyền của cả hai bên. Khi đại dịch
cuối cùng cũng kết thúc, sẽ không có những thay đổi quá lớn đối với cán
cân quyền lực tương đối giữa Mỹ cùng với các đồng minh và Trung Quốc-
cũng như với những xu hướng luôn mang tính tương đối đã bắt đầu một thời
gian dài trước khi dịch bệnh bùng phát.
Khi đại dịch cuối cùng cũng kết thúc, sẽ không có những thay đổi quá lớn đối với cán cân quyền lực tương đối giữa Mỹ cùng với các đồng minh và Trung Quốc- cũng như với những xu hướng luôn mang tính tương đối đã bắt đầu một thời gian dài trước khi dịch bệnh bùng phát. |
Sau đợt đại dịch, Mỹ và Trung Quốc tiếp tục
là những người chơi quan trọng và có ảnh hưởng trong khu vực. Cả hai
đều không thể bị làm ngơ. Các quốc gia trong khu vực sẽ vẫn muốn duy trì
mối quan hệ tốt với cả hai nước lớn này – thậm chí kể cả khi niềm tin
đối với hai quốc gia này xuống thấp, theo như một số cuộc khảo sát đã
nhất quán chứng minh. Chính quyền Trump vẫn thể hiện sự thiếu nhất quán
sẵn có trong chính sách đối ngoại của Mỹ, còn sự quyết đoán trong chính
sách đối ngoại của Trung Quốc dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình gần đây đã
bắt đầu gây ra phẫn nộ, trong khi chiến tranh thương mại và sự kiện
Hồng Kông đã làm lộ ra một số điều không tường minh trong câu chuyện của
Trung Quốc. Đợt đại dịch này có thể khuấy động sự mất lòng tin trong
khu vực đối với cả hai quốc gia này.
Những nước trung cường như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Úc và Ấn Độ sẽ tiếp tục đóng vai trò riêng trong khu vực phù hợp
với lợi ích của chính họ. Bị chi phối bởi lòng nghi kị đối với một nước
Trung Quốc độc đoán và một nước Mỹ ngày càng theo xu hướng “đổi trác”,
những đồng minh chính thức của Mỹ có thể sẽ tìm cách tự chủ hơn để theo
đuổi lợi ích riêng trong liên minh. Nhật Bản gần đây đang ở trong chiều
hướng đó, và Ấn Độ thì chưa bao giờ là đội phó của bất kỳ ai. Điều này
có lẽ thúc đẩy xu thế đa cực tự nhiên của của khu vực, hơn là nghiêng về
bá quyền của Trung Quốc.
Điều mà tương quan lực lượng tương đối sẽ
không thay đổi ngay lập tức không có nghĩa là đại dịch này không gây ra
bất kỳ ảnh hưởng chiến lược nào. Cả Mỹ và Trung Quốc đều không né tránh
sử dụng đại dịch này để chĩa mũi tuyên truyền chống lại đối phương. Điều
này chỉ càng khoét sâu căng thẳng giữa hai nước và cuộc cạnh tranh
chiến lược giữa Washington và Bắc Kinh. Tuy nhiên, những tính toán nội
bộ là quan trọng nhất đối với cả hai quốc gia.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang sử dụng
chủ nghĩa dân tộc để sửa chữa những tổn hại nội bộ về uy tín mà ĐCS
Trung Quốc phải hứng chịu. Sau khi khiến một đợt cháy rừng bùng nổ và
lan toả, Trung Quốc bây giờ đang cố gắng tập trung khả năng của mình để
kiềm chế ngọn lửa mà Trung Quốc cho phép lan toả đầu tiên. Bắc Kinh đang
đề nghị trợ cấp và cố vấn cho các quốc gia bị ảnh hưởng, tìm cách đối
lập họ với một nước Mỹ với hy vọng các nước sẽ không để ý lầm lỗi của
Trung Quốc. Tuy nhiên, sự kiểm duyệt trong nước nhiều hơn và sự tán
dương ngày càng lớn đối với vai trò của Chủ tịch Tập Cận Bình cho thấy
ĐCS Trung Quốc đang gặp khó khăn trong việc thuyết phục nhân dân của
nước này, chứ chưa nói đến những đối tượng khác. Điểm yếu của Trung Quốc
cũng như điểm mạnh của nước này ngay bây giờ đã được minh chứng.
Tăng trưởng chậm có thể khiến việc thực
hiện các cam kết mà Bắc Kinh đưa ra trong giai đoạn I của thỏa thuận
thương mại với Mỹ trở nên khó khăn. Chính quyền Trump có thể làm gia
tăng căng thẳng khi mà chíến dịch tranh cử Tổng thống đang nóng và nền
kinh tế Mỹ đang lạnh. Lúng túng trong xử lý dịch có thể khiến Trump mất
nhiệm kỳ 2, điều mà ai cũng nghi ngờ rằng Đảng dân chủ tự họ thì khó thể
thành công. Trump sẽ cần một sự phân tâm và khó có thể cưỡng lại sự cám
dỗ đối với việc sử dụng Trung Quốc như một “tội đồ”. Ứng cử viên Đảng
Dân chủ cũng sẽ không muốn thể hiện “mềm mỏng” đối với Trung Quốc. Nếu
Tổng thống Mỹ tiếp theo đến từ Đảng Dân chủ, có thể căng thẳng sẽ gia
tăng vì các vấn đề nhân quyền và lao động sẽ nổi bật hơn trong tính toán
của Mỹ.
Về trung hạn, những tính toán xoay quanh
những lỗ hổng và đa dạng hoá chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc, nếu có một
nỗ lực nào đó được cụ thể hoá, sẽ tăng cường vai trò của một số nhóm
người ở Mỹ ủng hộ “phân tách (decoupling)” và có thể tạo điều kiện cho
việc phân tách trong một số lĩnh vực cụ thể. Việc phân ly kinh tế trong
một số lĩnh vực nhất định đã xảy ra trong một mức độ nào đó. Đông Nam Á
đã phải đối mặt với những tình huống khó xử như thế này.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Mỹ và
Trung Quốc cũng như các nền kinh tế lớn khác vốn đã được củng cố thêm
do tốc độ lan truyền virus sang nước Mỹ và châu Âu. Sự phụ thuộc lẫn
nhau này sẽ khiến cho việc phân ly hệ thống trở nên khó khả thi, trừ khi
đại dịch kéo dài trong nhiều năm hoặc virus biến đổi thành một dạng
nguy hiểm hơn mà gây ra sự hoảng loạn lớn hơn. Ảnh hưởng xấu đến Đông
Nam Á khi đó sẽ rất sâu sắc.
Tuy nhiên, những thay đổi địa chính trị dài
hạn quan trọng nhất thậm chí có thể sẽ xảy ra độc lập với đại dịch,
hoặc khi đại dịch nhanh chóng lắng xuống. Chúng ta vẫn đang ở giai đoạn
khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khi phát triển các
công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo và in 3D có thể làm xói mòn lợi thế
chi phí của chuỗi cung ứng phân tán rộng rãi.
Những thay đổi địa chính trị dài hạn quan trọng nhất thậm chí có thể sẽ xảy ra độc lập với đại dịch, hoặc khi đại dịch nhanh chóng lắng xuống. Chúng ta vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khi phát triển các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo và in 3D có thể làm xói mòn lợi thế chi phí của chuỗi cung ứng phân tán rộng rãi. |
Toàn bộ các ngành công nghiệp cũng có thể
được “nội địa hóa”, được chi phối bởi những cân nhắc chính trị trong
nước của các nền kinh tế lớn, thay vì các mối quan tâm về chiến lược, an
ninh hoặc quản lý rủi ro chuỗi cung ứng. Những tính toán mới về lợi ích
của các cường quốc có thể đẩy Đông Nam Á xuống “vũng nước tù đọng” của
thế giới, chỉ quan trọng với các cường quốc khu vực và lân cận. Điều này
về cơ bản sẽ thay đổi môi trường chiến lược của ASEAN.
Khi chuỗi cung ứng bị thu hẹp hoặc biến
mất, triển vọng phát triển của các thành viên kém phát triển trong
ASEAN có thể bị tác động nghiêm trọng. Những quốc gia thành viên khác có
thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Dự án của ASEAN về việc đưa Đông
Nam Á trở thành một nền tảng sản xuất chung có thể hầu như không thu hút
đối với các nền kinh tế lớn. Nếu chuỗi cung ứng hầu như chẳng mang lại
lợi thế cạnh tranh, tại sao cần có một nền tảng sản xuất khu vực?
Mục đích chủ đạo của ASEAN là quản lý sự đa
dạng sơ khai vốn gây chia rẽ Đông Nam Á và làm phức tạp mối quan hệ
giữa các thành viên. Hợp tác kinh tế khu vực là dự án bao trùm ASEAN kể
từ năm 1967. Nếu điều này trở nên không còn quan trọng đối với tăng
trưởng của một số quốc gia thành viên, thì nó sẽ có ý nghĩa gì đối với
quan hệ song phương trong ASEAN? ASEAN sau đó sẽ đi về đâu? Quỹ đạo khu
vực có thể lái theo hướng hoàn toàn mới. Liệu Đông Nam Á sẽ một lần nữa
được coi là “vùng Balkan của Châu Á”?
💓💓Bilahari Kausikan, cựu Thứ trưởng Thường trực của Bộ Ngoại giao Singapore. Ông là một nhà ngoại giao, một chiến lược gia đã kinh qua nhiều vị trí, chức vụ khác nhau. Bài luận được đăng trên Global Brief ngày 1/4/2020.
Nguyễn Thị Lan Hương, Nguyễn Phương Hoài, Nguyễn Mai Hương (dịch) | Đỗ Hải (hiệu đính)
👥👥👥👥👥Xem Thêm :Đài Loan và Đan Mạch hợp tác sản xuất bộ xét nghiệm nhanh virus Vũ Hán trong 12 phút
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét