Tính đến 2013 thế hệ 1930 đã có tuổi từ trên 70 đến 80, nếu còn sống là sống thọ gần hết cuộc
đời mình hơn mức bình thường ngày xưa là 60. Đó lại là thế hệ đặc biệt chứng nhân trực tiếp
bao thăng trầm của đất nước, biến cố mốc lịch sử quan trọng, thay đổi chế độ, chiến tranh đủ
loại, lạnh nóng trong ngoài, sự có mặt viện trợ hoặc tham chiến của hầu hết các quốc gia thế
giới, nơi tập trung và cũng là mồ chôn đủ giống màu, cuộc tị nạn khổng lồ từ trước đến nay,
một vòng quạt tôn giáo lớn nhỏ du nhập từ lâu hay mới bành trướng, một sự thống nhất đất
nước mở cửa ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội văn minh văn hóa tâm linh.
Thế hệ 30 nầy được sinh ra dưới thời thuộc địa Pháp còn đội nón cối thực dân, bị bắt buộc học
chương trình Pháp, rồi lớn lên trải qua hai nền Cộng Hòa I và II của Tổng thống Diệm Thiệu
trước 1975, chứng nhân trực diện ngày 30-04-1975 lịch sử đổi đời, cuộc vượt biên vô tiền
khoáng hậu, những trại học tập chính trị cho quân dân miền Nam Việt nam Cộng hòa, cuộc
sống mới hoàn toàn khác biệt của người ở lại dưới thời Việt nam Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa
và đời sống tị nạn ở nước ngoài.
Thật vậy có thể bảo rằng thế hệ 30 nầy nhất ở miền Nam là thế hệ gian truân mà cũng may
mắn được trải qua bao biến cố lịch sử nước ta liên quan cả tình hình thế giới bấy giờ, nhiều bài
học kinh nghiệm xương máu nhất trong thời kỳ thay đổi quan trọng nhanh chóng của đất nước
ở thế kỷ 20 khi lên xe lúc xuống ngựa, thấy đó mất đó, nay ông mai thằng, chủ tớ, phong tục
tập quán đảo lộn, ngôn ngữ còn xáo trộn nữa là, gia đình phân tán, trật tự xã hội chưa ổn định,
hố sâu giữa giàu nghèo khó lấp bằng, ảnh hưởng của chính trị, kinh tế, văn hóa ngọai chập
chồng làm chóng mặt người dân nhất là sự chông chênh tâm tình chưa xóa được của kẽ thắng
người thua.
Phải công nhận rằng trên toàn thế giới chưa một đất nước bé nhỏ nào mà từ ngàn xưa đến nay
được bao nhiêu cường quốc để mắt đến xâm chiếm tranh giành.
Vẫn không thấy có nước kiên cường nào hơn sau trên ngàn năm Bắc thuộc, người bạn láng
giềng khổng lồ bằng mọi cách kể cả phi pháp luôn cả luật quốc tế, cho đến thế kỷ thứ 21 nầy
vẫn chưa và không bao giờ từ bỏ ý định biến thành một nước chư hầu vẽ thêm một ngôi sao
nhỏ trên lá cờ kẻ xâm lược. Sau đó gần một thế kỷ lệ thuộc Pháp, một cường quốc có nền văn
minh tiến bộ Dân chủ Cộng hòa đề cao Liberté, Égalité, Fraternité, (Tự do, Bình đẳng, Huynh
đệ ), nước nhỏ bé hình chữ S vẫn còn giữ nguyên vẹn lảnh thổ từ cửa Nam quan đến mũi Cà
mau (hởi ơi, giờ không còn cửa Nam quan nữa), giành lại được độc lập tự do.
Các bạn có tìm được đất nước nào mà bao lần bị đô hộ, ngôn ngữ vẫn còn được duy trì qua ba
miền đất nước, dù chính sách đồng hóa tiêu hủy hay thay thế văn hóa bản xứ bằng chữ Hán
của người Hoa, và kỳ diệu hơn đã biết vừa phá cách chữ Hán thành chữ Nôm, vừa cải mới chữ
viết sang Quốc ngữ theo mẫu tự La tinh.
Thương cho dân tộc Việt luôn luôn phải đối đầu vừa với mọi hoàn cảnh trong ngoài của đất
nước mới có hòa bình hầu theo kịp vừa với đà tiến hóa nhậy cảm và nhanh chóng thế giới, vừa
tận dụng cả lương tri để tìm chọn đúng đường, lý tưởng, ý thức hệ thích nghi.
Thật sự thế hệ 30 thế kỷ 20 từ nhỏ cho đến sang thế kỷ 21 còn tiêu biểu rõ nhất chưa hề
hưởng trọn vẹn đất nước mình hoàn toàn tự do độc lập lâu dài, không chiến tranh chống ngoại
xâm thì cũng là nội chiến, anh em cùng mẹ bất hòa ly tán như kẻ thắng người thua.
Cuộc đô hộ Pháp tuy ngắn ngủi chỉ gần 100 năm nhưng ảnh hưởng thật sâu rộng vô cùng nhất
là miền Nam. Về chính trị, với chính sách cai trị bằng đôi bàn tay sắt bọc nhung vừa ban phúc
bằng cách bành trướng mọi mặt kinh tế hành chính giáo dục, vừa dẹp tắt mọi mầm mống yêu
nước, khai thác tận cùng xương tủy tài nguyên đất đô hộ với tư cách bộ mặt của một ân nhân
nhà truyền giáo nhân đạo giúp đời. Do chính sách chia để trị, họ đã chia đất nước ta thành ba
miền, ba Kỳ (kỳ=vùng đất) như ba nước nhỏ có tên riêng, “Bắc kỳ” là Tonkin bằng chứng bài
hát nổi tiếng ngày lệ thuộc Ma petite Tonkinoise, “Trung kỳ” là Annam nên họ gọi dân ta là
Annamites, “Nam kỳ” là Cochinchine.
Hai miền Bắc Trung chỉ bị đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp như nước Tunisie ở Bắc Phi, riêng
miền Nam là thuộc địa thôi. Bảng số xe hơi được đánh dấu theo miền như VNB, VNT, VNN. Vì
theo quy chế thuộc địa của chính quyền thực dân, nên guồng máy hành chánh, giáo dục của
Nam kỳ đều do “mẫu quốc”, đứng đầu là Thống đốc Pháp, sau đó năm 1877 thuộc Liên Bang
nên có Toàn quyền Đông dương (Gouverneur Général de l’Indochine Française). Do đó thế hệ
30 miền Nam biết đến vị Toàn quyền Đông dương cuối cùng là Jean Decoux (1940-1945) và
Thống đốc Nam kỳ dân sự đầu tiên là Le Myre de Vilers và vị cuối cùng Ernest Thimothée
Hoffël (1942-1945), vị nầy đã đọc một bài diễn văn trước mộ Cụ Đồ Nguyễn đình Chiểu ở Ba
Tri ngày 27/6/1943 và đã được các nử sinh Tiểu học ngâm thơ chào mừng tại Văn miếu
Gòcông khởi đầu bằng câu: “Hoffël Thống đốc sử nên biên”.
Ngoài ra xin chung chung đề cập vài điểm khác biệt mà công dân Việt ta ít biết hay không ai
còn nhớ để ý đến. Miền Nam được chia ra 21 tỉnh đánh số riêng cho mỗi tỉnh mà học sinh Tiểu
học nào thời Pháp thuộc cũng phải thuộc nằm lòng đọc ngắn gọn từng ba chữ đầu như: Gia
Châu Hà, Rạch Trà Sa…
1-Gia định; 2-Châu đốc; 3- Hà tiên
4-Rạch giá; 5-Trà vinh; 6-Sa đéc
7-Bến tre; 8-Long xuyên; 9-Tân an
10-Sóc trăng; 11-Thủ dầu một; 12- Tây ninh
13-Biên hòa; 14-Mỹ tho; 15-Bà rịa
16-Chợ gạo; 17-Vĩnh long; 18-Gò công
19-Cần thơ; 20-Bạc liêu; 21- (Ô) Cấp
Cấp là do tiếng Pháp Cap có nghĩa là mũi đất, đây là Cap Saint Jacques mà ngày nay là Vũng
tàu ban đầu được thành lập thành phố tự trị (commune autonome) năm 1895.
Ngoài ra các chức vụ lãnh đạo cai trị về hành chánh, quân sự, an ninh và cả giáo dục của ba
miền đều không giống nhau, như ở miền Nam đều do người Pháp đãm nhận như Thống đốc
Nam kỳ (Gouverneur de La Cochinchine-1879), Chánh tham biện (Administrateur Tỉnh trưởng )
cả ông Cò (Commissaire) Trưởng ty Cảnh sát. Trong khi miền Trung có Khâm sứ Trung kỳ
(Résident Supérieur d’Annam), miền Bắc có Thống sứ Bắc kỳ (Résident Général de Tonkin).
Dinh hành chánh là tòa tham biện mà người dân gọi là Tòa bố. Tỉnh lại chia thành Tổng
(canton), đứng đầu là Cải tổng. Tổng lại chia thành Làng, đứng đầu là Hội đồng Hương chức
hay gọi là Ban Hội tề cho đến 1945 thì tan rã gồm có 12 chức vụ: 1-Hương Cả; 2-Hương chủ;
3-Hương sư; 4-Hương trưởng; 5- Hương chánh; 6- Hương giáo; 7-Hương quản; 8-Hương bộ;
9-Hương thân; 10-Hương hào; 11-Xã trưởng; 12-Chánh lục bộ.
Từ 2-5-1882 đã có Hội đồng địa hạt, mỗi tổng có một nghị viên Hội đồng địa hạt nhiệm kỳ 3
năm khác hẳn với miền Bắc bảo hộ có những chức vụ khác như Thượng thư, Chánh lý, Lý
trưởng.... Nghị viên Hội đồng được bầu là người Việt và cũng như tất cả các chức vụ hành
chánh khác phải thuộc nhà có tài sản, biết tiếng Pháp.
Dinh Thống đốc Nam kỳ lúc đầu được xây bằng gỗ (1863) và kế đó ngày 23-2-1868, Thống đốc
Nam kỳ La Lagrandière khởi công xây lại dinh mới tại Saigon và lạ lùng nhất lại lấy tên dinh
Norodom, quốc vương Campuchia, cho đến thời Đệ nhất Cộng hòa mới đổi tên là Dinh Độc lập.
Nhưng ngày nay đến thế kỷ thứ 21 nầy rồi, ta vẫn còn thấy những tòa dinh thự uy nghi từ Bắc
đến Nam do người Pháp xây cất, trường học mà chương trình giáo dục truyền bá đến các tỉnh
làng, những đồn điền cao su cà phê họ tận lực khai phá, các sự kiện nầy cũng làm ta một chút
trầm tư suy gẫm, kẻ xâm lăng cũng có người có chút lòng mang đến nền văn minh mới, kẻ
khác bất nhân tham lam cưỡng chiếm biến nước nhỏ láng giềng thành tỉnh chư hầu củng cố
mộng bá chủ thế giới.
Như mạn sông nước miền Nam chằng chịt, thế hệ 30 sống liên tục trong hoàn cảnh bị động của
đất nước như chiến tranh không ngừng, lại được đúc kết nên từ nền giáo dục ngoại bang, tinh
thần giằng co giữa phong tục tập quán truyền thống và ảnh hưởng phúc lợi của nền văn minh
Âu Tây, tiếp cận với bao dân tộc khác, sống trong vùng đất rộng sông dài, phì nhiêu tài nguyên
phong phú không chỉ do thiên nhiên ban tặng mà còn chính là do công ơn của ông cha ta trong
cuộc Nam tiến cùng với bao di dân khác khai phá mở mang.
Thế hệ 30 miền Nam một phần của thế hệ 30 trong ba miền, lại là thế hệ từ mới ra đời đã phải
sống gọn lõn trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng, thời kỳ cao điểm bình định miền Nam thành
thuộc địa. Về giáo dục, đặc biệt là phái nữ cũng được khuyến khích đi học như phía nam, họ bị
bắt buộc học theo chương trình Pháp, sử Pháp “Nos ancêtres sont des Gaulois”, chào cờ Tam
Tài với ba màu Xanh biểu hiệu Tự do, Trắng là Bình đẳng, Đỏ là Bác ái, và hát quốc ca Pháp
La Marseillaise.
Thời kỳ học ở Tiểu học, họ đã nhận biết phần nào thế nào là thân phận của dân lệ thuộc, cuộc
đấu tranh châu chấu đá voi chống ngoại xâm qua các cuộc tản cư về miền quê trốn đạn bom,
trường học phải đóng cửa, dời nay nơi nầy mai nơi khác để nhường chỗ cho đồn binh trại lính
giặc tạm trú, chứng kiến bao cuộc bố ráp của lính lê dương đánh thuê đủ loại màu da ruồng bắt
tiêu diệt phong trào ái quốc chống Tây. Một trong hậu quả là bao nhiêu con rơi đủ giống màu
mà một thiên tình sử may là có hậu giữa một quân nhân viễn chinh Pháp chung thủy Jean
Bedel Bokassa và cô gái quê Nguyễn thị Huệ đã làm tốn bao nhiêu công sức giấy mực và nước
mắt thời Đệ nhị Cộng hòa để tìm lại được con gái chung của họ là Martine Bokassa nhờ trung
gian của nhà báo Việt Định Phuơng của báo Trắng Đen thời bấy giờ. Jean Bedel Bokassa sau
nầy trở thành Hoàng đế Trung Phi (1966-1979) mà ngày 1/12/1977 cố nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ
đã đưa đoàn văn nghệ sang Cộng hòa Trung Phi trình diễn nhân ngày Hoàng đế Trung Phi
Bokassa I đăng quang.
Rồi lại tiếp đến nền đô hộ không đầy một năm của Nhật sắt máu dùng lúa thay than đốt, ruộng
vườn trồng toàn cây bông vải cây đay làm cho gần triệu người miền Bắc chết đói, vựa lúa miền
Nam kiệt quệ, nhà nhà phải cử người đi học tiếng Nhật. Vậy là thế hệ nầy vừa vào tuỗi trưởng
thành đã trải thêm kinh nghiệm cuộc xâm lăng mới của quân phiệt Nhật.
Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào Thanh niên Tiền phong đầy khí thế với tầm vông vạc
nhọn với những bài hát kháng chiến làm nức lòng dân ta trong những ngày đầu mới được độc
lập tự do.
Ai là cựu nữ sinh Gialong chắc còn nhớ Lễ trộn đất các miền đất nước do các phái đoàn đại
diện nữ sinh miền Bắc mặc áo dài xanh lá cây, nữ sinh miền Trung với quốc phục màu vàng,
miền Nam màu xanh nước biển, vùng Cao nguyên với các cô gái Thái trắng với quốc phục
riêng của họ rất đẹp, mỗi đoàn mang một bọc đất vùng mình đến dự lễ hòa trộn đất chung nhau
thống nhất thành một khối tại nữ trung học Gialong, thời kỳ Quốc trưởng Bảo Đại.
Tiếp theo đó là những cuộc thanh trừng những ai mà chế độ Việt nam Dân chủ Cộng Hòa lên
án là “Việt gian”, thủ tiêu cho “mò tôm” cường hào ác bá, tay sai lính kín theo Pháp.
Riêng ở miền Nam, vì Pháp còn trở lại 1946 nên chương trình Pháp vẫn tiếp tục cho đến 1950.
Do đó sinh viên học sinh miền Nam còn là chứng nhân trực tiếp các cuộc biểu tình chống Pháp
và các cuộc bạo động cùng với dân chúng Saigon, làm reo bãi khóa 10 trường công tư, tuyệt
thực ở Pétrus Ký, Gialong,... cao trào nhất là cái chết và đám tang của Anh Trần văn Ơn năm
12 -1-1950 dưới thời Thủ hiến Trần văn Hữu.
Trong thời kỳ học ở Trung học, tuổi bắt đầu trưởng thành, cứ mỗi lần tình hình đất nưóc thay
đổi thế hệ trẻ nầy đều có những trải nghiệm quan trọng mới . Họ đã học văn chương văn minh
lịch sử Pháp, tất nhiên cái tầm nhìn và suy nghĩ của họ không thể hoàn toàn giống như ông cha
ngày trước vì cái hào quang và tiếng sét đổi đời của Cuộc Cách mạng Pháp 1789 giải phóng
chống lại phong kiến độc tài lập nền Cộng hòa mới trẻ độc lập tự do.
Song song với việc mở mang dân trí miền Nam, người Pháp còn ru ngủ tinh thần ái quốc dân ta
bằng cách mở các tụ điểm ăn chơi, hút xách, mại dâm, như Đại Thế Giới ở Chợ lớn, sòng bạc
Kim chung ở khu vực Cầu Muối, Trường Đua Phú thọ. Các bạn cựu học sinh Pétrus Ký niên
học 54-55 chắc không quên ngày quân đội Đệ I Cộng hòa tháng 4-1955 tấn công vào vị trí Bình
Xuyên ngay tại trường Pétrus Ký, dưới thời Thầy Hiệu trưởng Phạm văn Còn.
Rồi lịch sử lại đổi thay. Thế hệ 30 nầy đến 1954 đã ra đời sinh hoạt, họ lại chứng kiến cảnh chia
đôi đất nước lần thứ hai ở vĩ tuyến 17, cầu Hiền lương trên sông Bến Hải làm bức tường ngăn
cách ý thức hệ. Hơn một triệu đồng bào miền Bắc di cư trốn chạy bằng mọi phương tiện, bằng
tàu há mồm, phi cơ, đường bộ tị nạn vào Nam, bao gia đình miền Nam ly tán tập kết ra Bắc.
Thế là từ cái ấn mốc chia rẽ đất nước thành hai nước Cộng hòa, Việt nam Cộng Hòa ở miền
Nam với đồng minh Thế giới tự do, Việt nam Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với Thế
giới Cộng sản.
Từ đó, thế hệ 30 miền Nam lại được pha trộn thêm kinh nghiệm sống khác lạ thân phận người
của miền Bắc, với đầy đủ thành phần nhưng phần lớn là những trí thức, thượng lưu, đầy đủ
nghề, có đạo dưới chế độ Cộng sản. Bấy giờ thế hệ 30 miền Nam thống nhất nầy quả là tổng
họp sức mạnh của thế hệ trẻ đang trong thời kỳ đầy nhiệt huyết tràn sức sống và có lý tưởng
xây dựng lại đất nước.
Họ đang là thế hệ nối tiếp nồng cốt giữ vai trò chủ động trên mọi mặt mọi cấp xã hội chính trị
văn hóa quân sự tôn giáo dưới thời Đệ nhất Cộng hòa với Tổng thống Ngô đình Diệm và Đệ
nhị Cộng hòa thời Tổng thống Nguyễn văn Thiệu .
Như chúng ta đã biết, sau thế chiến thứ hai, Việt nam ta đã trở thành một địa bàn mà các
cường quốc Âu Á thi thố các thủ đoạn trong cuộc chiến tranh lạnh và phổ biến rộng ảnh hưởng
của thế giới tự do và Cộng sản, và thế hệ 30 miền Nam trước kia đã từng sống đưới thời thực
dân Pháp nay biết trực tiếp thêm chú Sam với cái nhãn hai bàn tay nắm tay nhau và các nước
đồng minh trong thế giới tự do. Sự hiện diện của lực lượng đồng minh và nhất là dân quân Mỹ
trực tiếp hoạt động thời bấy giờ cũng thay đổi quan niệm truyền thống của vùng đất mới nầy
một lần nữa, hậu quả khó lường.
Thêm vào đấy, đất nước đang thời kỳ bình yên nhất, mọi hoạt động đang vào nề nếp xây dựng
đất nước tiến bộ thì tình hình nội bộ lại rối ren phe phái, tôn giáo đưa đến sự sụp đổ của Đệ I
Cộng hoà, và sau đó đến sự giảm viện trợ và rút quân của Mỹ thời Đệ II Cộng hòa gây thất bại
để rồi đất nước “thống nhất”. Thời kỳ nầy chính thế hệ 30 là thành phần đóng góp nhiều nhất
trong mọi địa bàn xã hội từ thành thị đến thôn làng, gia đình nào bằng cách nầy hay cách khác
cũng dự phần vào việc bảo vệ miền Nam và hy vọng giải phóng miền Bắc thống nhất lãnh thổ.
Nội chiến từng ngày từng ngày giữa Bắc và Nam, do sự giựt giây viện trợ của các cường quốc
khác nhau vì ý thức hệ, bao dân Việt hy sinh, đất nước bị tàn phá bằng mọi phương tiện giết
người kể cả những hóa chất độc hại được thử nghiệm trong chiến tranh có ảnh hưởng giết lần
chết mòn trong nhiều thế hệ trong tương lai.
Chưa dứt bất hạnh đâu, sau “Cách mạng thành công 30-04-1975, thế hệ 30 nầy trở thành
“ngụy quân ngụy quyền” ngụy dân mất hết quyền công dân dưới chế độ chiến thắng mới. Lần
nữa họ lại là nạn nhân của thời thế khi tuổi đời chín muồi __________đầy kinh nghiệm sống suốt cả tuổi
thanh xuân trưởng thành đã cống hiến cho xã hội gia đình miền đất nước tự do họ đang phục
vụ giữ gìn bảo vệ đổi mới cách tân và hiện đại hóa cho sự phát triển Việt nam.
Trước kia, ông cha Việt ta đã làm cuộc Nam tiến và đã cùng bao lưu dân hay di dân khác như
Khmer, Hoa, Chăm, Ấn biến miền Nam thành vùng đất mới trù phú có nền truyền thống văn
hóa đa dạng được chấp nhận tận dụng cho sự phát triển đất nước đến ngày nay. Bây giờ cuộc
Nam tiến lại đẩy ra khỏi đất nước hơn triệu người vượt biên bất chấp tính mạng hiểm nguy
bằng mọi phương tiện hợp pháp, bất hợp pháp đường bộ tàu thủy, ghe xuồng phi cơ.
Đáng thương vẫn là thế hệ 30 nầy, lý tưởng và hoài bảo, tài sản vật chất tinh thần đều bị tiêu
tan đáng tiếc nhất là những kinh nghiệm sống và trình độ nhận thức cao của họ trong mọi lãnh
vực khoa học kỷ thuật tiên tiến hiện đại.
Những người ở lại trở thành dân ngụy bị bắt buộc học cải tạo từ Nam ra Bắc đi kinh tế mới, nhà
cửa cơ sở kinh doanh bị tịch thu, họ cũng mất tất cả có khi còn lại vướng vào tù tội vì chưa biết
gì về chế độ mới.
Ai ra được nước ngoài, gia đình ly tán, từ chủ thành tớ, có học thành thất học, không tiền
“không môi miếng, không chân đứng”, tuổi đời khá cao nhất là việc hội nhập vào nước định cư
khác biệt về phong tục tập quán ngôn ngữ thật không dễ dàng gì. Từ đây, đối với chế độ mới
họ mang tên Việt kiều với bao tĩnh từ xấu xa đính kèm và tưởng chừng như không bao giờ còn
cơ hội trở về thăm lại quê hương.
Vậy mà cái thế hệ 30 nầy, từ hai bàn tay trắng họ đã thắng được hoàn cảnh đau buồn tột cùng
của họ bằng lòng tự hào dân tộc, ý chí quật cường kiên trì, kinh nghiệm sống đã biết lùi bước
để sống còn bảo vệ và xây dựng tương lai sáng lạn cho thế hệ con cháu. Hơn thế nữa, họ vẫn
không quên bà con ruột thịt, bạn bè còn kẹt lại quê hương, chỉ cần nhìn vào số tiền họ đã gởi
về trợ cấp hằng năm chứng minh điều trên.
Thật ra, thế hệ nào từ trước đến nay nhất là thời kỳ Pháp thuộc, cũng đều góp phần vào giữ và
xây dựng đất nước nhất là Việt nam ta hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi về địa lý, khí hậu, nhiều
tài nguyên chưa khai thác, vị trí bao lơn nhìn ra biển Đông, bờ biển dài từ lâu đã nhiều hải cảng
nổi tiếng cho các tàu buôn ngoại, thềm lục địa đang khai thác mỏ dầu, đường hàng hải rộng mở
giữa các nước Đông Nam Á, các biển đảo trù phú gây sự thèm thuồng cho các nước lân cận và
nhất là dân số gần 90 triệu càng ngày càng tăng, thông minh cần cù chịu khó, khéo tay và tiến
bộ.
Tuy nhiên, thế hệ 30 miền Nam và sau đó gồm cả miền Bắc di cư 1954 quả là những nhân
chứng trực tiếp dòng lịch sử thay đổi bất thường cho đến ngày nay, từ mới sanh ra đời dưới
thời Pháp xâm lăng cho đến ngày nay. Chính họ là thành phần hy sinh nhiều nhất trong mọi
biến cố thời đại vì họ là người trong cuộc chiến bảo vệ phát triển miền đất họ giành lại được để
sống trong nền độc lập tự do. Với văn hoá Tây phương, miền Nam trở thành đi đầu trong việc
đổi mới văn hoá, cách tân và hiện đại hóa sớm hơn mà thế hệ 30 là thành phần nối tiếp hữu
hiệu nhất. Đã sống trong xiềng xích nô lệ, họ biết thế nào thành quả tuyệt vời là độc lập tự do.
Họ là người đã thấy và sống với chiến tranh nên họ biết thế nào là giá trị của hòa bình.
Vì thế, dù sống trong hoàn cảnh nào của đất nước, ở trong hay ngoài nước, thế hệ 30 miền
Nam luôn cố giữ cái “mình” của họ xứng đáng là người Việt dòng giống Rồng Tiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét