GIỮ GÌN NGÔN NGỮ VIỆT TRONG SÁNG.
NHỮNG TỪ NGỮ DỄ LẦM LẪN TRONG TIẾNG VIỆT.
Bài số 4
Các bạn trang Quốc Ngữ thân mến,
Đề tài Những Từ Ngữ Dễ Lầm Trong Tiếng Việt bài số 4 gồm những từ như sau (các bạn khoan thắc mắc tại sao tôi dùng chữ “từ” này nhé):
--lai căng hay lai căn:
"lai căng" đúng, "lai căn" sai. Ngày nay rất nhiều người không còn biết nguyên ủy tĩnh từ “lai căng” do đâu mà có, nên lầm lẫn chữ “căng” thành ra “căn”, vì nghĩ rằng chữ “căn” là “rễ” như trong “căn cớ”, “căn nguyên”, “căn bản” (gốc rễ), thì dùng với chữ “lai” là lai tạp rất hợp nghĩa. Nhưng thật ra không phải vậy. Ngày trước, các nhà văn nhà báo dùng chữ “căng”, nguyên là tên tiếng Việt cổ của một giống khỉ ở trên rừng, ghép vào chữ “lai” thành “lai căng”, ý so sánh thô tục một chút cái gì đó quái dị, khó thể chấp nhận như người lai thú vật. Chứ không phải họ dùng chữ “căn” là cội rễ nhưng viết sai chánh tả thành chữ “căng” viết có G. Nhiều người ngày nay viết “lai căn” vì cho chữ này có nghĩa là nguồn gốc lai tạp, nhưng viết như vậy không đúng chánh tả chữ nguyên bản.
Nói rõ thêm, chúng ta có thành ngữ “cha căng chú kiết”, với hai chữ “căng” và “kiết” vốn là tên của hai giống khỉ trên rừng. “Cha căng chú kiết” là nhóm chữ ẩn dụ nói một người không ai biết họ là ai, ở đâu ra, tức là người xa lạ, với ý khinh miệt như tiếng chửi “đồ bá vơ”, “thằng khỉ nào đó”. Chữ “căng” trong tĩnh từ LAI CĂNG chính là từ những chữ “căng, kiết” này mà có.
--bắc cầu hay bắt cầu:
"bắc cầu" đúng, "bắt cầu" sai. Đây là lỗi chánh tả của người Nam, người Trung vốn nói những chữ có T và C đằng sau không phân biệt, chứ người nói tiếng Bắc thì không nhầm lẫn được “bắt” với “bắc” nên không viết sai chánh tả hai chữ này. Nhiều người tranh cãi trên Mạng rằng phải viết “bắt cầu” mới đúng, vì họ liên tưởng những chữ “nắm bắt”, “bắt đầu”. Nhưng cách hiểu này không đúng. Động từ đúng dùng cho việc làm một cây cầu qua sông, suối gọi là “bắc”, viết C, không phải “bắt” viết T.
“Bắc cầu” giống như: bắc thang, bắc nồi lên bếp, bắc đường dây điện, v.v. Tất cả đều viết chữ “bắc” với C.
Riêng với điện thoại thì chúng ta có dùng “bắt điện thoại”, với chữ “bắt” viết T. Nhưng “bắt điện thoại” khác nghĩa với “bắc điện thoại”. “Bắt điện thoại” là cầm điện thoại lên nghe người khác gọi đến. Còn “bắc điện thoại” là bắc đường dây kết nối điện thoại giữa nơi nầy với nơi kia.
Chữ “bắt” viết T: bắt đầu, bắt buộc, bắt bẻ, bắt chước, bắt ép, bắt gặp, bắt đền, bắt tội, bắt lỗi, bắt phạt, bắt sống, bắt thăm, bắt lính, bắt gió, bắt mạch, bắt tay, bắt banh, bắt bướm, bắt chí, bắt cướp, bắt bồ, bắt nạt, bắt bí, bắt nọn, bắt thóp, bắt mối (làm ăn), bắt bạc, bắt địa, bắt mánh (tiếng lóng); bắt quả tang, bắt quàng làm họ, bắt cá hai tay, thả mồi bắt bóng (thành ngữ), v.v...
--lắt léo hay lắc léo?
Cả hai chữ đều đúng nhưng khác nghĩa. “Lắt léo” là tĩnh từ đồng nghĩa với phức tạp, chúng ta viết chữ “lắt” với T. Còn “lắc léo” là trạng từ trong “xí lắc léo” (tiếng miền Nam) thì chữ “lắc” nầy viết C.
--mải mê hay mãi mê?
"mải mê" đúng, "mãi mê" sai. Nhiều người viết “mãi mê” vì lầm với chữ “mãi” viết dấu ngã trong “mãi mãi”. Nhưng “mải mê”, “mải miết”, “mải ăn”, “mải làm”, “mải suy nghĩ” chúng ta phải viết dấu hỏi mới đúng chánh tả theo tiếng Bắc.
--giãi bày hay giải bày?
"giãi bày" đúng, "giải bày" sai. “Bày” là bày ra, ai cũng biết rồi, nhưng tạ sao chữ “giãi” lại viết dấu ngã? -- “Giãi bày” là động từ tiếng Bắc, với chữ “giãi” nghĩa là “trải ra”; nên “giãi bày” là trải ra, bày ra. Còn người Nam thì viết sai “giải bày” với chữ “giải” dấu hỏi, vì hiểu lầm là “trình bày” và “giải thích”. Ý niệm cho chánh tả hai động từ khác nghĩa ban đầu này cần được hàn lâm viện ngôn ngữ của nước Việt Nam mới ngày sau thống nhất lại, còn bây giờ chúng ta nên viết “GIÃI BÀY”, với chữ “giãi” dấu ngã, như tự điển ghi như vậy từ trước đến giờ.
--lễ lạt hay lễ lạc?
"lễ lạt" đúng, "lễ lạc" sai. Cũng giống như “giãi bày” và “giải bày” nói trên, “lễ lạt” cũng là chữ tiếng Bắc đã có từ xưa, với chữ “lạt” viết T, chứ không phải “lạc” viết C.
Ngày nay, nhiều người miền Nam không còn biết chữ “lễ lạt” nữa, mà viết thành “lễ lạc”, với chữ “lạc” viết C nghĩa là “vui”. Họ cho rằng lễ hội thì là vui rồi, vậy viết “lễ lạc” là đúng; còn chữ “lạt” của ”lễ lạt” nhiều người khác cho là chữ vô nghĩa vì họ không hiểu chữ “lạt” có nghĩa gì. Tôi đã từng giải thích trước đây, người Bắc xưa dùng chữ “lạt”, hay người Nam ngày nay dùng chữ “lạc” là đều lấy một chữ cái L trùng với L của ”lễ” làm tiếng đệm cùng phụ âm mà ghép ra từ kép hai chữ. Song, người Bắc dùng chữ “lạt” là vì “lạt” nguyên là sợi dây lạt ngày xưa người ta dùng để cột bánh chưng, bánh dày đem đi cúng đình chùa vào ngày lễ, ngày hội. Sợi dây lạt tre màu trắng được thắt thành cái nơ bên trên cho gói bánh được đẹp và bắt mắt. Từ đó để có chữ ghép vào với “lễ”, trong đầu người ta tự nhiên xuất hiện hình tượng sợi dây lạt gói bánh ngày lễ ngày Tết mà nói thành “lễ lạt”.
Hiện tượng dùng một chữ tương cận về nghĩa hay một chữ vô nghĩa nhưng cùng phụ âm với chữ trước như “lễ lạt” có vô số trong tiếng Việt. Chỉ riêng những cặp từ ghép với phụ âm L nầy thôi, không cần nói tới các phụ âm khác, chúng ta đã có rất nhiều: làm lụng, lân la, la lối, lèo lái, lươn lẹo, lung linh, long lanh, lóng lánh, lộng lẫy, lẹ làng, lửng lơ, lững lờ, lanh lẹ, lung lay, lão luyện, lì lợm, lấn lướt, liên lụy, lì lợm, lú lẫn, lẩn lút, lấp liếm, lầm lẫn, lầm lỗi, lần lữa, v.v.
Tóm lại, trừ ra ngày sau chữ Việt được bàn soạn trở lại và có nhiều thay đổi về chánh tả, thì ngày nay chữ đúng chánh tả vẫn là LỄ LẠT, không phải “lễ lạc” nhé các bạn.
--viển vông hay viễn vông, viễn vong?
"viển vông" đúng, "viễn vông", "viễn vong" sai. Chữ “viễn” nào cũng dấu ngã (viễn xứ, viễn hành, viễn khách, viễn phương, viễn lự, vĩnh viễn, miên viễn, v.v.), nhưng duy nhất chỉ có “viển vông” là chúng ta phải viết dấu hỏi. Tại sao? – Không ai biết. Vì đây là lối phát âm của người Bắc, họ phát âm dấu hỏi thì viết ra chữ dấu hỏi vậy thôi, giống như chữ “mải” mà không phải “mãi” nói trên. Nhưng có rất nhiều người viết sai thành “viễn vông” vì hiểu lầm với chữ “viễn” nghĩa là “xa vời”, trùng ý niệm với nghĩa của “viển vông”.
--cầu vồng hay cầu vòng?
"cầu vồng" đúng," cầu vòng" sai. Hình tượng miêu tả đúng là cái mống ánh sáng nổi vồng lên nền trời, chứ không phải cái hình vòng tròn của nó.
--sống mũi hay sóng mũi?
"sống mũi" đúng, "sóng mũi" sai. Rất nhiều người viết “sóng mũi dọc dừa” là do hình dung đường mũi con người nhìn ngang thường có đường cong lượn, quặp, gãy giống như sóng nước. Nhưng “sống mũi” mới đúng chánh tả, vì chữ “sống “ này là cạnh mặt trên của một vật, giống như “sống dao”, “sống lá”, “sống lưng”. “Sống lưng” viết Ô thì “sống mũi” cũng viết Ô giống nhau.
--quằn quại hay oằn oại?
"quằn quại" đúng, "oằn oại"" sai. Nhánh cây “cong oằn” hay con rắn “oằn mình” thì chúng ta viết “oằn”, nhưng động từ “quằn quại” viết QU mới đúng chánh tả.
--bạt tai/tát tai hay bạt tay/tát tay?
"bạt tai/tát tai" đúng, "bạt tay/tát tay" sai. Động từ này không miêu tả động tác đánh bằng tay, mà là đánh vào mang tai, nên phải viết BẠT TAI/TÁT TAI mới đúng.
--(la) bài hải hay bài hãi?
"bài hải" đúng, "bài hãi" sai. Người viết sai “bài hãi” vì lầm với chữ “hãi” viết dấu ngã của “sợ hãi”, trùng nghĩa với trạng thái kinh sợ của “la bài hải”, nhưng đây là chữ HẢI viết dấu hỏi mới không sai chánh tả.
--đàn gảy tai trâu hay đàn gãi tai trâu?
Chữ "gảy" đúng, viết "gãi" sai. Cây đàn hay tiếng đàn không thể “gãi” như “gãi ngứa” cho con trâu. Chữ “gảy”, viết Y và bỏ dấu hỏi, là “khảy”, tức động tác đánh ngón tay vào dây đàn, đánh đàn, không phải “gãi” như “gãi đầu gãi tai”.
--yên trí, trí mạng hay yên chí, chí mạng?
"yên trí, trí mạng" đúng, "yên chí, chí mạng"" sai. Lỗi sai chánh tả này là của người nói tiếng Bắc vốn quen phát âm TR thành CH mà ra.
--vô hình trung, tựu trung, hay vô hình chung, tựu chung?
"vô hình trung, tựu trung" đúng, "vô hình chung, tựu chung"" sai. Đây cũng là lỗi do phát âm sai như “yên trí” thành “yên chí” nói trên.
“chung quy”, “chung cuộc”, “chung kết”, “chung thủy”, “lâm chung” chúng ta mới viết CH.
--trưng bày hay chưng bày?
"trưng bày" đúng, "chưng bày" sai. Chúng ta viết: “các tác phẩm nghệ thuật được trưng bày trong viện bảo tàng” mới đúng chánh tả. Không viết “các tác phẩm nghệ thuật được chưng bày trong viện bảo tàng”.
Nhiều người viết sai “trưng bày” thành “chưng bày” là vì nhầm lẫn với “chưng dọn”, “chưng diện” với chữ “chưng” này vốn phải viết CH.
--tròng tréo hay chồng chéo?
"tròng tréo" đúng, "chồng chéo"" sai. “Tròng tréo” vừa là động từ, vừa là tĩnh từ, miêu tả hình ảnh sợi dây tròng vào, xỏ qua tréo lại để cột buộc cái gì. Nhưng do nhiều người Bắc phát âm “tròng tréo” thành “chòng chéo” rồi sửa luôn thành “chồng chéo” nghĩa là chồng lên, xếp chéo qua chéo lại. Ý tưởng này dùng để nói sự việc rắc rối phức tạp thì không sai, nhưng chánh tả thì phải thống nhất từ ý niệm cho tới chữ viết, cho nên chữ đúng phải là chữ nguyên thủy TRÒNG TRÉO không phải chữ nói trại “chồng chéo”.
--Tru tréo hay chu chéo?
"Tru tréo" đúng, "chu chéo" sai. Chữ viết CH này sai cũng là do phát âm đớt TR thành CH.
--u sầu hay ưu sầu?
"u sầu" đúng, "ưu sầu" sai. “U sầu”, “u uất”, “u uẩn”, “u mê”, chúng ta đều viết U, không phải “ưu”. Nhiều người ngày nay viết sai “u sầu” thanh “ưu sầu” là do lầm lẫn với chữ “ưu” của “ưu phiền” – cũng là tĩnh từ gần như đồng nghĩa với “u sầu”. Nhưng “u” và “ưu” ghép với hai chữ khác nhau. Cả hai tĩnh từ này đều là chữ Hán-Việt. “U” là sâu thẳm, “ưu” là buồn. “U sầu” là trạng thái buồn sâu xa, da diết; còn “ưu phiền” là buồn bã, phiền muộn trong lòng.
--đĩnh đạc hay đỉnh đạt?
"đĩnh đạc" đúng, "đỉnh đạt" sai. Đây là lỗi chánh tả của người Nam và người Trung, do phát âm không phân biệt chữ dấu hỏi và dấu ngã, chữ viết T hay C đằng sau. Mặt khác, có người còn suy diễn về nghĩa mà cho rằng "đĩnh" với "đạc" đều không có nghĩa gì, còn "đỉnh đạt" là đạt đến đỉnh cao, mới là những chữ có nghĩa. Thật ra không phải vậy, "đĩnh đạc" tuy là hai chữ không có nghĩa nếu tách ra, nhưng khi được ghép lại chúng tự khắc lập nên nghĩa chung rõ ràng, miêu tả phong thái chững chạc, tự tin của một con người. Loại từ vựng này tiếng Việt có rất nhiều. Còn nói về phát âm, không như giọng của người hai miền Nam và Trung, người Bắc nói “đĩnh đạc” khác hẳn với “đỉnh đạt” nên không thể viết sai tĩnh từ ĐĨNH ĐẠC thành “đỉnh đạt”.
**********
Trên đây là 20 cặp từ kép gồm danh từ, tĩnh từ, động từ trong tiếng Việt rất dễ gây nhầm lẫn dẫn đến viết sai chánh tả. Mong bạn nào viết sai thì sửa chữa cho đúng chữ nghĩa.
Đề tài Những Từ Ngữ Dễ Lầm Lẫn Trong Tiếng Việt đến đây chưa phải là hết, mà còn khoảng năm bài nữa. Tôi sẽ trình bày tiếp sau. Anh chị em nào có chữ gì cần hỏi, xin cứ nêu ra với tựa bài Thắc Mắc Chữ Nghĩa, Ban Quản Trị sẽ trả lời.
Cám ơn anh chị em đã đọc bài.
Trang Anh Thạc
Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến, 07-7-2025
H.Phi chuyển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét