3 thg 12, 2024

GÃ THIỀN GIÀ - Ngộ Không Phí Ngoc Hùng

 

GÃ THIỀN GIÀ 

        ngồi cái nấm mọc, nhưng là cái nấm biết tu bia, và dẫu chuyện với tôi về cái hay hớm của thiền, để thuyết phục tôi thiền. Gã nhét vào tai tôi những nét thăng hoa phát tiết của thiền. Số là một lần tôi dại dột nói thiền có gì hay ho đâu. Gã “mổ” lại tôi: Có biết công án Thiền sư qua sông không? Không đợi trả lời, gã tiếp: Vậy là chú mày chả biết quái gì về thiền. Gã nhũn não hồi này ở trong nước có cao trào mang thiền vào quán nhậu. Vì cần thuyết phục người đối thọai, dùng công án thiền dễ hiểu hơn nhiều với "vô ngôn", "vô ngã", "vô sở đắc", "vô sở trụ"…rất rõ ràng, sáng tỏ.

            Cuối tuần này có mưa gió nhì nhằng, gã “nằm” liêu xiêu ở nhà, căng mắt quán chiếu lên trần nhà để thiền. Thấy lạ quá chừng, tôi hỏi gã…”nằm” thiền làm gì mà khổ vậy, hết ngồi lại…nằm, chẳng thiền có chết ai đâu. Thế là gã lên đồng với chữa nghĩa, nhập hồn nhập vía vào thiền qua khuôn mặt thiền tính, thiền quán, gã…thiền nhập môn cho tôi.

       Khi Mã Tổ còn là tăng và ngồi thiền. Bạn là Nam Nhạc hỏi:

       - Ông ngồi thiền để làm gì vậy?

       - Để làm Phật.

       Nam Nhạc vặn vẹo Mã Tổ:

       - Thiền không ăn nhằm đến nằm hay ngồi, học Phật như vậy là giết Phật. Phật vốn vô hình, vô tướng. Chấp tướng pháp vào ngồi thì không đạt được cái lý của thiền học.

        Nhân tướng pháp với vô hình, vô tướng, gã không có tướng lại có tính là tính học đòi theo cụ Tú non Côi sông Vị nhập thế tục bất khả vô văn tự, chẳng hay ho cũng húng hắng một vài. Bởi là bạn đời của gã nên tôi biết tỏng gã viết bài cho đặc san Đồng tu cho nhà chùa ở San Antonio. Phải gió cắn răng gì đâu, vậy mà ngày nào gã…tu hai chai bia. Bèn hỏi…tu gì ngon ăn vậy? Gã nhét thiền vào miệng tôi như vầy:

       Thiền sư Gazan được thiền sư Hakuin mời tới thiền viện, thay vì hầu trà như mọi khi, thiền sư Hakuin rót rượu vào mấy cái chén thố và bày ra một đĩa thịt chó.

       Thiền sư Gazan hỏi:

       - Tại sao ông uống rượu, ăn thịt chó.

       Thiền sư Hakuin đáp:

       - Tại tôi là người

      Thiền sư Gazan nổi cáu:

      - Ông là người còn tôi là gì.

      Thiền sư Hakuin chăm chăm nhìn vào mặt thiền sư Gazan:

      - Ngài là ông Phật vì ngài không uống rượu, ăn thịt chó.

            Tôi trộm nghĩ vụng hai ông thiền sư Nhật rõ rối chuyện, vặc nhau như mổ bò vì…đĩa thịt chó. Trong khi với chuyện thịt chó của ta có Phật tính hơn nhiều. Vì cụ Nguyễn Tuân kể chuyện từng được một ông sư đãi một bữa thịt chó độc đáo. Thịt chó ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen, bó lại, đem đồ cho chín dừ. Món ăn vừa tục vừa thanh, vừa có vị chát của nhựa sen vừa có hương thơm hoa sen của nhà Phật.

        Gã viết...báo chùa bút hiệu…Ngộ Không. Bởi dựa thiền môn, gã nhang thơm đèn thắp, cảo mực đề văn, nuốt câu bớt chữ, thêm dấm thêm tương dăm khỏen chữ Nôm. Bởi nhuốm mùi nho phong mực tàu giấy bản bấy lâu gã hủ nho, hủ nút khủng khỉnh cọ đít nồi một mẻ chữ Nho chi, hồ, giả, dã để tô điểm cho cái ngộ của gã. Ấy là:

       Đại nghi đại ngộ, tiểu nghi tiểu ngộ, bất nghi bất ngộ.

       Nói cho ngay nào tôi có khác gì con ếch, con bướm của Trang Tử. Vì con ếch ngồi trong đáy giếng, làm sao nói được chuyện biển cả. Con bướm chẳng sống qua mùa hè làm sao nói được chuyện tuyết rơi. Thấy mặt tôi bè ra như cái bướm, mắt trố ra như mắt ếch. Gã khai mê phá ngộ cho tôi qua cái ngã của gã:

        Nghi lớn ngộ lớn, nghi nhỏ ngộ nhỏ, không nghi không ngộ.

        Gã tha ma mộ địa: Theo nhà Phật, mọi thứ trước khi giác ngộ đều mê lầm. Con người ta bị chấp trước mê lầm. Chỉ khi nào tống khứ được chấp mới có thể đạt ngộ. Từ đạt ngộ, gã vắt qua “ngộ không” là cảnh giới cao nhất. Khi con người ta tìm tới thanh tịnh, người đó có thể chống lại những cám dỗ chuyện đời thường và rất gần với chân nguyên. Hay nói khác đi. Ngộ không là giác ngộ với chữ Không.

       Bố khỉ, thà gã nói quách Ngộ Không là…’’không ngộ’’ cho tôi đỡ rối trí.




Một ngày với bất nghi bất ngộ, gã đi tìm ấn chứng của gã qua ông thiền sư Bồ Đề Đạt Ma. Ông thiền sư đứng trên thuyền lau không có mái chèo, chẳng ai hay ông từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Gã như ông chả biết gã từ đâu đến và mai này sẽ về đâu? Gã lọ mọ theo ông vào hang hốc thấy ông diện bích trong núi 9 năm, không nói một tiếng, mà nếu có nói ông nói tiếng Ấn Độ nên gã chả hay gã là ai. Gã chỉ thấy hình tướng gã qua bức tranh vác trên vai cây gậy quảy…một chiếc dép.

        Tại sao hình ảnh Bồ Đề Đạt Ma có 1 đôi dép lại không quảy hết, mà quảy 1 chiếc? Gã mài óc nghĩ không ra. Từ đó gã như người sống trên mây, gã hành thiền bằng cách ngồi trong thảo lư ở Trúc gia trang nhìn mây bay gió thổi, uống bia, loay hoay với chậu Bonsai, và dao kéo và bật cười khan một mình. Gã nào khác gì mấy ông thiền sư ẩn náu cả chục năm trong núi, suốt ngày hết chống gậy lên núi thấy núi không là núi, rồi lại chống gậy xuống sông thấy sông chẳng là sông. Đến khi mệt mỏi tựa gốc cây, ngửa mặt lên trời cười khan…như gã. Thế là gã nhân sinh quý thích chí vì gã đã…ngộ.

      Thấy tôi chưa ngộ nên láo ngáo về thiền, gã dậy: Công án của thiền, không nên luận giải hay phân tích. Công án vô nghĩa đến đâu nhưng vẫn có những ẩn tàng một cái gì sâu xa đằng sau câu trả lời. Nếu chú mày có căn tu, một ngày nào đó trái nắng trở trời, chú mày sẽ…ngộ ra thôi. Thảng như công án với khúc cây Bonsai vô ngôn hảo diệu, nụ non mãn khai nói lên một chuyện tình cùng những hệ lụy lây dây với thiền nằm ở…khúc sau (xem tr 5). Chuyện tu có sư ngay dưới đây, nhưng ở…chợ.

        Chuyện là một ngày như mọi bữa, sáng bảnh mắt ra tôi pha cà phê cho gã, chiều ngồi đồng hầu bia. Tôi hầu gã hơn hầu bố tôi không bằng, thế mới lạ. Ấy mà lạ hơn nữa sáng nay có tiếng réc réc như dế kêu, tôi đưa cái “cùi bắp” cho gã. Lát sau, gã xách xe ra khỏi nhà, biết có mục, tôi đeo theo vào một quán vắng trong chợ Hồng Kông ngay sau lưng nhà. Người gọi điện thọai cũng vừa tới, ấy là hai mẹ con. Qua chuyện hóa ra gã và bà ta là anh em họ. Bỗng bà bảo con ra chợ mua ít đồ mang về Sài Gòn, rồi lấy trong ví ra tấm hình đã cũ. Tôi dòm thấy ba người: Gã, bà ta và…một cậu trai.

       Cậu trai tóc chải ngôi giữa, mới đầu tôi nghĩ là họ hàng chi đây, hóa ra là bạn cùng xóm của gã và bà ấy khi còn trẻ. Bà ta thì thầm sụt sùi như ấm ức, cớ sự vậy nên tôi càng lắng tai với tiếng còn tiếng mất, nhưng nghe xong, tôi muốn bá thở.

       Giê-su-ma lạy Chúa tôi, cô con gái của bà là: Con của một…ông sư.

        Vì vậy từ trong quán ngòai phố chợ, tôi cứ năng nhặt chặt bị để viết thành truyện Gã thiền giả, bởi không phải là nhà văn nên chả cần cốt truyện. Tôi cứ dựa dẫm vào gã có sao kể vậy. Có trước có sau vừa từ phố chợ về, gã xách bịch bia ra vườn ngồi uống. Đang tu, mắt gã lóe lên như đom đóm đực, gã quơ tay chộp được hai con ruồi như ruồi trâu. Tôi nghĩ dại, hay gã bắt mồi đưa cay. Ực hết chai bia, gã nhón từng con, bỏ vào chai không, nhưng vẫn còn chút ít bia thừa. Vừa rơi tõm xuống lớp bia mỏng tang, chưa yên chỗ, con ruồi con đã thoả mái tắm táp, lau mày lau mặt, như con gái vậy. Còn con ruồi lớn đủng đỉnh chấm mút chút bia cặn, rất tửu đồ, rất nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ.


 

Mắt ngó chừng hai con ruồi, gã nhìn tôi ra ý dò hỏi ắt là một cái, một đực chăng? Gã và tôi, thấy mỗi lần con cái vo ve, con đực như bực bội và loi ngoi muốn bò ra khỏi cổ chai. Khi không gã nhỏm dậy đi lấy cái kéo, đồ nghề Bonsai. Tôi chắc mẩm gã ngứa mắt vì ba cái cành mọc ra lạc lõng nên muốn tỉa tiếc chi đây. Vì mỗi lần hòan tất xong một tác phẩm nghệ thuật…cây. Gã lỳ một lam, tôi làm một ly, rồi gã đổ vấy cho cụ Cao Bá Quát đọan tống nhất sinh duy hữu tửu và buồn tình ngâm nga khỏang trời đất cổ kim, kim cổ, mảnh hình hài không có, có không.

         Tôi chả cần mảnh hình hài không có, có không gì sất, lẫm đẫm theo gã, thấy con đực rất tửu đồ, tôi âm ử theo cụ Vũ Hòang Chương qua Say đi em: “chân rã rời, quay cuồng chi được nữa, gối mỏi gần rơi…”. Nghe câu ”gối mỏi gần rơi” với gối gần chân, gã nhón con đực vừa bò ra khỏi cổ chai, quơ cái kéo cắt béng...hai chân nó. Gã bỏ con đực vào lại chai. Lần này, con cái gặp lại chàng…ngày về nay đã cụt chân bèn nhẩy tót lên lưng con đực bắt nó cõng. Con đực cõng con cái nhẩy cà tửng, cà tửng. Ngứa mắt, gã dốc chai bia lôi con đực ra, cắt hết chân nó và bỏ vào lại. Rơi xuống đáy chai, con ruồi té cái bịch vào chút ít bia thừa.

        Là người trần mắt tục, dòm con ruồi đực cõng con ruồi cái, thêm …vũng bia như vũng nước. Hốt nhiên trong đầu tôi bật ra truyện Sư cụ và cô lái đò mà tôi viết về gã khươm mươi niên trước. Chuyện ấy tôi tam toạng về sư cọ, sư mô, sư tàng, tôi hư cấu gã chưa phải là sư, chỉ là sư mõ...gõ mõ nên chưa đạt tới sắc-không, nghĩa là gã không thể uống rượu mà đạt tới cõi...chưa hề uống. Như sắc giới và xác thịt, vì gã là chú tiểu nên sư cụ chùa làng kể chuyện ông sư già cõng cô gái qua vũng nước, ông sư trẻ cứ lậu bậu này kia. Ông sư già đáp: “Ông còn mang cô gái đó theo sao? Tôi đã bỏ cô ta lại rồi mà”. Qua sư cụ chùa làng: ông sư già vô ngã, vô chấp sẽ được an lạc, giải thóat. Còn ông sư trẻ vì chấp nhất, không giác ngộ được. Đó là ý nghĩa về bất chấp giới luật của ông sư già mà sư cụ chùa làng răn dậy gã khi gã là chú tiểu đầu còn ba chòm tóc.

        Vì là chuyện tôi viết, tôi chắc như cua đinh ông sư già nhận thức da thịt mình quả tình có vô tình…va chạm tí ti vào chút dư thừa của cô gái. Ông sư già chứng ngộ được cái ngã của mình ẩn nấp trong bộ áo nâu sòng cũng liễu đạt như ai, trần tục như bất cứ ai. Tạm hiểu ông sư già...không thật. Vì vậy trong Sư cụ và cô lái đò, tôi đưa cụ Tam Nguyên Yên Đỗ vào chuyện. Vì cụ để lại bốn câu thơ được thuật lại qua một bà. Bà này là con của người con gái nhà ai tắm vệ sông mà cụ Nguyễn Khuyến đã gặp một chiều trên bến nước:

      Con gái nhà ai tắm vệ sông

Vú vê để hở váy quai cồng

Ước gì ta được mà ta để…

Ta để mà ta lại…để chung

        Qua sông ai nỡ quên đò như cụ Nguyễn Khuyến. Cụ rất thật với “Ước gì ta được mà ta để, ta để mà ta lại để chung”. Nhất cụ nên tôi đưa cụ vào đây là vậy. Vì ai lại như ông sư già dấu biến cảm xúc của da thịt khi cõng cô gái trẻ.

       Hôm sau, mới sáng tinh mơ gã và tôi rời khỏi nhà. Ngồi trong xe, tôi lẫm đẫm chuyện hai con ruồi, làm như không đúng bài bản. Cuối cùng chịu hết nổi, tôi há họng hỏi. Gã cơm niêu nước lọ chả thiền tính chút nào: Hữu hình tất hữu họai…Mồi điếu thuốc lá, giọng khào khào: Âm động của vô thức, âm thanh không âm thanh. Nghe hãi quá thể, tôi nghĩ dại, thôi rồi cứ như Tiếng vỗ của một bàn tay. Mà giời ạ, tay chân con ruồi bị gã cắt béng đi còn đâu mà vỗ. Tôi chưa kịp “ngộ”, gã luận thêm công án thiền của riêng gã, nghe tức như bò đá: Khi con ruồi không còn chân tay. Nó sẽ bị…điếc. Khỉ thật, tôi đã hư cấu, gã còn hiện thực giả hư cấu thật hơn tôi nữa! Số là tôi dựa dẫm theo gã, tôi hư cấu gã chỉ là sư mõ...gõ mõ nên chưa đạt tới sắc-không, nghĩa là gã không thể uống rượu mà đạt tới cõi...chưa hề uống. Vì phái Tào Động có câu: ‘’Người ta say vì uống rượu’’, đến trần ai khoai củ này, thấy người ta trồng khoai cũng vác mai đi đào, cách đây mươi năm, tôi…đào thêm truyện Sư sở cuồng và người kỹ nữ.

         gã là bạn thâm căn cố đế của tôi, trong Sư cụ và cô lái đò, gã chả biết sắc giới và xác thịt quái gì, vì gã chỉ là tỳ kheo. Qua Sư sở cuồng và người kỹ nữ tôi tôn gã làm sư ông và tôi để gã nếm mùi đời với sắc dục như…cụ Nguyễn Khuyến.

       Trong chuyện này, tôi nhồi nhét gã là sư ông theo tăng tịch Nhật với tên Seikichi, sống cuộc sống đời thường, sư ông mặc quần “ka-ki”, áo “sơ-mi” trắng giản dị như bất cứ ai khác. Nên chẳng mấy ai hay sư là…sư. Ít nữa sư có lấy vợ, cũng chỉ là chuyện đời thường. Một ngày sư ông Seikichi xâm thân thể cho một kỹ nữ. Bà bị lãnh cảm nên tới sư ông Seikichi chữa bệnh bằng cách xâm mình bằng kim xâm với mực tàu.

       Khúc kết tôi lấp lửng với nhân quả:

       “…Và sư đắm chìm trong tình cuồng, trong gieo duyên giải nghiệp. Trong sư đang tách bến phàm trần nhập vào thể tánh. Trong một chớp mắt, tay sư vung bút kim lên: Chấm…một dấu chấm li ti như…hạt bụi. Sau một ngày xâm mình xâm mẩy, sư vật người ra, không hẹn mà gặp, bà và sư đều lăn ra chiếu. Ánh trăng chui qua khung cửa sổ bò lên manh chiếu, leo lên tấm lưng bà loang loáng những vệt mờ ảo vàng ong ong. Dấu chấm rún rẩy như vừa thoát ra cái kiếp lai sinh và đang ngọ nguậy để tồn sinh…

       Ở góc phòng, mảnh tăng bào của sư nằm phủ lên áo kimono của người kỹ nữ… Giữa xáo động và tĩnh lặng…cảnh nói thay người, người chẳng có gì để nói. Chuyện xẩy ra là lẽ tất nhiên của đất trời với xuân hạ thu đông có bốn mùa..”

           Chuyện trên tôi vay mượn cảm hứng từ phim của Đại Hàn, tên Xuân, Hạ, Thu, Đông và Xuân. Cốt truyện có một tiểu tăng bỏ cổ tự, bỏ thầy lên đường không một lời chào. Hắn đi theo tiếng gọi của dục tính. Ngày hắn trở về sư phụ không còn nữa, hắn thay sư phụ trụ trì chùa. Trên đường bỏ chùa mà đi với có nhân có quả, một buổi sáng, hắn nghe tiếng trẻ con khóc ngoài cổng chùa. Bài Bát nhã tâm kinh qua giọng của người con gái nào đó của ngày nào đấy như về từ cõi mộng với từng câu chữ: Xá lợi tử! Sắc bất dị không. Không bất dị sắc. Hắn ở lại cổ am, một mùa xuân mới lại bắt đầu với cậu bé vừa nhập môn kia. Cậu bé là “phân thân” của hắn, hình ảnh hắn mươi năm trước. Mọi thứ lại bắt đầu. Ngoài kia nắng đã lên giữa một mùa xuân có rừng phong và núi đá xanh rêu. Trong cổ am, con rắn già chậm rãi bò ngang bàn Phật, lặng lẽ, và thành kính

         Thế là tôi hỏi về bạn gã mới gặp ngoài phố chợ. Gã trả lời bằng cách quay đi và phun khói mù mịt. Quay cửa kính xe xuống cho đỡ ngộp, ngó ra ngòai thấy bảng chỉ đường. Ủa, gã đang lái tới Sealy chỉ cách Houston mấy chục dặm đường. Tôi hỗng người, tất cả mọi sự từ hôm qua đến hôm nay ăn khớp với nhau như hai cái đĩa răng cưa quay vòng vòng. Vậy mà cái đầu đất tôi nghĩ không ra!  Vì gần đến thành phố Sealy nhỏ bé, rẽ vào con đường mòn có một cái chùa. Tại chùa có một ông sư trụ trì.

       Giống cuốn phim câm quay chậm…Rằng bằng vào cách đây không lâu tôi nghe bát nháo gã có một ông bạn nối khố du học ở Nhật, đang học nửa chừng bỏ đi tu theo phái Tào Động, không câu nệ hình thức như sư, thày, đại đức đều là người cả. Sư giống như người, có gì ăn nấy, có rượu saké càng vui, có vợ lại càng tốt.      

       Gã và sư gặp nhau, ở ngòai sân chắp tay thủ lễ bạch thầy với thí chủ. Bước vào trai phòng, họ mày, tao chi tớ đâu ra đấy. Bởi mới nhập môn với gã, tôi chân trong chân ngòai cửa thiền, nên rất ngại hầu chuyện sư. Nhưng gặp rồi tôi ngờ ngợ thấy sư có nét hao hao giống ai đấy hiện ra trong chốc lát ở đâu đó, tôi nặn óc nghĩ không ra. Khi sư chỉ cây Bonsai và chuyện trò với gã rằng một ngày như mọi ngày: Tối sư bê ra ngòai hứng sương đêm, sáng sư khiêng vào đặt trên bệ cửa sổ. Mà cây Bonsai nào có đẹp gì cho cam, chỉ là gốc mai rừng trơ trụi, với dăm chiếc lá èo uột, vật vờ trên khúc cây già cỗi chẳng có đến một cái nụ non mãn khai. Tôi hỏi tên chậu Bonsai, sư xa vắng…

       Gió thông đưa kệ tan niềm tục

       Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời

       (Trần Nhân Tôn)

        Vậy là “mọi sự” rõ như đêm giữa ban ngày. Mặc gã hục hặc lái xe về lại Houston. Tôi cỏ hoa lạc lối về ông sư trụ trì ở ngôi chùa lạc lõng tại Sealy và cô em họ gã. Họ giống đức Bồ Đề Đạt Ma đi trên chiếc thuyền lau về cõi ngộ, cả hai cùng đi chung một con thuyền hệ lụy, chưa ghé bến ngộ, đã tới bờ mê. Gần nửa đường, hình ảnh cây Bonsai ẩn hiện trong tôi hiu hắt gì đâu. Tôi quay qua gã, bóng gió xa xôi về ông sư đã chôn một quãng đời tục lụy trong lời kinh tiếng kệ, tiếng chuông tiếng mõ, nhưng hình như nghiệp vẫn chưa dứt còn theo mãi cho đến nay. Ngày ngày ông còm cõi bê ra, khiêng vào khúc cây khô. Tôi thu vén khúc cây ấy ắt sẽ có một mùa xuân như phim Xuân, Hạ, Thu, Đông và Xuân. Kết cấu có khúc: “Trong cổ am, con rắn già chậm rãi bò ngang bàn Phật, lặng lẽ…”. Vì vậy với chuyện ở trên thiên đàng có…con rắn quấy quả ông Adam, bà Eva chỉ là…chuyện đời thường thôi.

        Gã thao láo như mắt rắn ráo nhìn tôi. Trong một sát na với tiếng chuông tỉnh thức. Gã lẳng lặng vòng xe trở lại ở một khúc quanh gần nhất. Và bắt.. một bịch bia. Về đến nhà gã nói tôi ra vườn uống bia với gã. Trong khi gã nhẩy bổ vào phong lấy sấp bản thảo bảo tôi đọc. Thóang dòm bài tạp văn có tựa đề…“Gã thiền giả, hay thiền thật”:

       Gã viết về gã tòan công án thiền, đại thể: “Thiền là gì?”. Trả lời: “Thiền là một cái gì đó tròn và lăn…”. Nếu người học thiền ngớ ra không hiểu. Bèn tiếp: “Một cái gì không diễn tả được…”. Tôi đồ là cái mũi trước mắt gã…gã còn không nhìn thấy nữa là…là tôi. Vì vậy với tạp bút Gã thiền giả này, tôi thấy sao rót tồ tồ vào giấy. Tôi viết về gã khó hiểu một cách vừa phải về đàn ông và đàn bà qua…con ruồi đực, con ruồi cái. Tôi chả triết Đông, triết Tây gì sất, tôi chỉ dựa vào nguồn gốc con ngươi từ thời cổ đại La-Hy. Một cái gì đó tròn và lăn từ đỉnh núi xuống tách ra làm hai cục thịt: Một cái gì không diễn tả được chỉ là…cục thịt đàn ông và cục thịt đàn bà đi tìm nhau.

        Bởi gã quái vậy mới là thiền sư. Vậy chứ gã thiền thật hay thiền giả?. Giả hay thật. Câu trả lời có và không. Có đấy mà cũng…không có đấy. Tuy nhiên trong Gã thiền giả dường như “cái tôi” của gã là âm bản “cái ngã” của tôi nên tôi không biết…tôi là ai. Vì vậy đành bấm bụng…bấm cái “cùi bắp” hỏi sư trụ trì ở Sealy, ông cười nhín:

        - Ấy là Chứng bệnh Ferma ở phương Tây: ngẫu sự là cái đầu hiện thực giả, hư cấu thật của bạn tạo ra nhân vật thứ hai để nói chuyện. Cái xứ vật chất này đã nuốt chửng cái thằng người thực của bạn và khạc ra một thằng người khác là gã.

        Bạn chính là gã chứ chẳng ai khác.

 

                                                                                      Trúc gia trang

                                                                                     Canh Dần 2010  

                                                                            Ngộ Không Phi Ngọc Hùng

                                                                                (thêm bớt 2017, 2024)

 

Nguồn: Ngô Ngọc Trang, Nguyễn Hoài Phương

Tọai Khanh, Laiquangnam, Nguyễn Đại Thuật

 

 Mời Xem Lại :

Chữ nghĩa làng văn Kỳ 15/11/2024 - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét